Powered By Blogger

Monday, November 25, 2013

Vụ án MALO PASS ở Santô Tân đảo (Phần kết thúc)

VỤ ÁN “MALO PASS” 
ở Santô Tân đảo (Đoạn Kết )


Jean Van Son – Vanuatu sao lục và biên soạn.


... Trên 80 năm đã trôi qua. Nhưng dư âm của vụ án kinh hoàng ở Malo Pass tại đảo Santô vẫn còn vang vọng đâu đây. Một vụ án đã được ghi vào lịch sử tha phương của người Phu mộ Việt nam tại  Tân đảo thời kì thực dân thế kỉ thứ hai mươi.


Bản đồ đảo MALO và AORE ở Santô - Tân đảo

Để minh chứng cho sự kiện đó, Văn xin phép được phỏng dịch bài viết của ông Phùa (Luật sư LG FROUIN) đăng trên báo “Néo-Hébridais” năm 1931, về cuộc hành hỉnh đẫm máu 6 người phu mộ VN bằng máy chém lúc 6 giờ sáng ngày 28/07/1931 diễn ra tại trại lính Bảo an Tây ở Port Vila Tân đảo.


Quang cảnh trại lính Bảo an Port Vila Tân đảo và nơi đặt máy chém ngày 28/07/1931
Ghi chú trên ảnh: Place de l'echafaud (nơi đặt cỗ máy chém). 
Milice francaise (Trại lính Bảo an của Pháp)
Hopital indigene (Nhà thương dành cho người bản xứ)
Hopital francais (nhà thương dành cho người Pháp)

Bài báo viết như sau:

Ngày 28 tháng 7 năm 1931: 
Máy chém dưới bóng dừa.

Quang cảnh yên tĩnh của trại lính bảo an của chính quyền địa phương nằm trên một khu đồi cỏ xanh.  Chung quanh  có cảnh quan ngoạn mục của các villa thưa thớt nhìn ra Vịnh Port Vila, tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp. Thường ngày tại đây,  vài con ngựa ô chậm rãi gặm nhấm làn cỏ xanh rờn  dưới bóng dừa râm mát. Người ta còn nghe thấy cả những tiếng cười đùa của mấy anh lính Bảo an vang dội từ những căn nhà quét vôi trắng xoá., Dưới ánh dương  ửng hồng buổi bình minh của ngày 28/07/1931 hôm ấy, bỗng chốc đã biến nơi đây thành… một thảm địa đẫm máu.


Cỗ máy chém đưa từ Noumea về Vila

Cài máy chém đưa từ Tân Thế giới về được dựng lên lúc nửa đêm, đứng sừng sững như một pho tượng của thần chết. Lưỡi dao sắc bén vô cảm, lạnh lùng, trong giây lát sẽ nhuộm máu đỏ ngòm vì phải thực hiện nhiệm vụ đưa 6 cái đầu lìa khỏi thân xác của người phu mộ tông-ki-noa.

Lần đầu tiên trong lịch sử của Tân đảo, người ta dựng cái “Máy chém" ở nơi đây. Theo tư liệu của phòng lưu trữ hồ sơ tại Noumea, thì lưỡi đao tử thần này đã được cái vinh dự chém bay đầu Vua Louis XVI của Pháp và có thể là cả cái đầu của Thủ lĩnh Ropespierre nữa. Máy đã được di chuyển từ Pháp qua chặng đường dài hơn 22 ngàn cây số để tới Port Vila.

Máy chém được dưng lên đề giải quyết vụ án 6 người cu-li phu mộ Viêt nam đã tổ chức mưu sát tên chủ N. ở Malo Pass đảo Santo tháng 8 năm 1929. Ngày 27/07/1931, dưới sự giám sát của cảnh sát, tầu "La Perouse" đã vận chuyển máy chém cùng với 6 người tử tù từ Noumea về Vila để sáng sớm hôm sau thi hành án tử hình.

Cảnh sát Tây áp giải 6 tử tù từ tầu "La Pérouse" neo đậu tại Vịnh Vila.

Rất nhiều người đến dự cuộc hành hình này. Gồm  các kiều dân châu Âu. các quan chức nhà nước Pháp và Anh, đại diện các chủ đồn điền, đại diện các cu-li người Viêt nam và người bản xứ. Nhưng hầu hết mọi người phải đứng xa nơi hành hình, đằng sau hàng rào cản của binh lính Pháp. Trong giới quan chức cao cấp có ngài Tổng biện lý, ngài Chánh án toà Thượng thẩm, ngài Cảnh sát trưởng, ngài Trưởng phòng Di trú, Chánh án toà Sơ thẩm, ngài Chánh xứ và một Bác sĩ trưởng ban Y tế…


Chân dung linh mục Pierre LOUBIERE

Lần lượt, tử tù bị xích tay chân được hai tên lính xốc nách  từ nơi giam giữ cách 40 mét tới chân bệ máy chém. Cha xứ Pierre Loubiere đã cẩn thận cuốn băng vải đen bị mắt từng người, dẫn giắt họ với những lời nguyện cầu cho linh hồn họ được thanh thản và cuối cùng nhanh chóng đưa cây thánh giá mầu đen xì  vào môi tử tù trước khi họ đưa đầu vào máy chém. Cứ sau một cái đầu rơi, Cha xứ lại nhanh chóng  đến phòng giam giữ để dẫn dắt một tử tù khác đến chỗ máy chém. Và cứ thế  Cha xứ Loubiere đã 6 lần xác nhận là đao phủ đã “giải thoát” linh hồn cho các tử tù.
Và 6 cái đầu đã lìa khỏi xác…

Mệnh lệnh đã được thi hành chu đáo và triệt để. Thời gian thi hành án chỉ mất 20 phút.
Trên gương mặt các tử tù đều thể hiện vẻ bình thản và nén chịu.

Chính quyền địa phương đã khen ngợi tên đao phủ (người điều khiển máy chém), vì chỉ trong thời gian ngắn đã làm rơi 6 cái đầu.


Phỏng dịch theo Bài viết của Luật sư LG FROUIN
trên báo "Neo Hebridais" tháng 7 năm 1931.



Lời bình của tác giả

… Vụ án MALO Pass ở đảo Santô đã đánh đấu một bước ngoặt lịch sử trong công cuộc đấu tranh dành quyền sống Tự do và Công lý cùa hàng vạn người công nhân phu mộ Việt nam tại Tân đảo. Âm mưu chống đối lại sự áp bức tàn bạo của chủ đồn đièn thực dân thời đó là điều tất yếu không thể tránh khỏi.

Đại sứ VN Hoàng Vĩnh Thành tại Canberra Úc viếng thăm Mộ Liệt sĩ

Vụ án MALO Pass là tiếng chuông cảnh tỉnh ghê gớm đối với giới chủ đồn điền trên khăp mọi nơi ở Tân đảo. Sau vụ án, giới chủ đồn điền đã buộc phải thay đổi một phần cách cư xử đối với người phu mộ Việt nam. Đến độ Nhà chức trách địa phương đã phải ra quyết định cấm không cho xây lăng mộ. Chỉ là thảm cỏ xanh, không bia mộ, không tên tuổi. Để làm gì và tại sao thì chỉ có ông Trời hoạ may mới biết được… Nhưng mãi đến năm 1946, tức là 15 năm sau đó Ông Đồng sỹ Hứa lãnh đạo Liên hiệp Thợ thuyền VN đã đưa kiến nghị yêu cầu Nhà Chức trách địa phương cho phép xây Bia mộ tưởng niêm. Sau cuộc đấu tranh kéo dài, Nhà câm quyền Pháp đã đồng ý, với điều kiện không được phép ghi tên tuổi của họ.


Thứ trương Bộ Ngoại giao VN Nguyễn Phú Bình và đoàn viếng mộ Liệt sĩ

Năm 2007. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao VN Nguyễn Phú Bình khi đến viếng Mồ Liệt sĩ đã nói:  “Hành động dũng cảm của những người công nhân phu mộ VN ở MALO Pass đã mang lại kết quả nhất định trong công cuộc dấu tranh dành quyền sống Tự do và Công lý”.


 


 
Lễ đặt Bia mộ mới tìm được tên trên Mồ Liệt sĩ

Ngôi mộ tưởng niệm trước đây được xây cất. Nhưng do Nhà chức trách địa phương cấm ghi tên tuổi đã  trở thành ngôi mộ “vô danh”. Đến mãi gần đây, ông Ngô Văn Vũ đã cất công tìm kiếm được danh tính của các chiến sĩ nói trên. Và một bia mộ bằng đá hoa cương với đầy đủ Họ tên cũng như ngày tháng  của vụ hành hình gắn trên ngôi mộ đã được gia đình ông Đinh Văn Thân truy tặng.

Một điều đặc biệt làm ngưòi ta chú ý khi xem bia mộ: Tất cả những người bị tử hình hồi đó là người Thiên chúa giáo. Thực hư như thế nào không ai biết. Nhưng có nhiều nguồn tin xác nhận là số người này đã được Cha xứ Loubière rửa tội trước khi lên máy chém. Như vậy mặc nhiên, họ đã được công nhận là người của Thiên Chúa giáo... Cầu xin Chúa ban phước lạnh cho họ!



Rồi lại nhớ đến hai cấu đối của Cụ Đồ Phấn ghi trên cột trụ của Lễ đài tưởng niệm tại Nghĩa trang người VN tại Port Vila như sau:

“Phốc dã đồng bào Hồng Bắc khứ”
“Ta hồ ngã chủng cách Nam quy”  

có nghĩa là:
Than ôi! Đồng bào ta đã theo chim Hông bay về Phương Bắc.
Tiếc thay! Dòng giống cốt nhục này vẫn ở mãi với Trời Nam.

Để tỏ lòng tôn kính và ngưỡng mộ đối với các vị Liệt sĩ Tiền bối đã anh dũng hy sinh cho một cuộc sống Tự do và Công bằng. Lớp con cháu của người phu mộ chân đăng ở đây vẫn thường xuyên viếng thăm, tu sửa mộ phần và thắp nén nhang tưởng niệm.




 







Voici le récit de Me LG FROUIN, publié dans le journal “Néo-Hébridais” en 1931, sur l’exécution capitale des 6 condamnés vietnamiens liés à l’affaire de “MALO PASS” en 1929 à Santo Nouvelles Hébrides..



Port Vila, 28 juillet 1931:



La guillotine sous les cocotiers


Le champ de la milice française est une belle pelouse entourée de villas claires, et domine la ville et la rade. Habituellement, quelques chevaux y paissent indolemment et l'on entend les rires sonores des miliciens dans leurs cases blanchies à la chaux. A l'aube rouge de ce matin du 28 juillet 1931, c'est le champ de la mort.

La guillotine, amenée de Nouvelle Calédonie, et dressée pendant la nuit, montre dans l'aube qui pointe, le couperet livide qui bientôt remontera cinq fois éclaboussé de rouge puisque six têtes vont tomber.

C'est la première fois qu'on élève la guillotine ici. Celle qui est dressée aurait servi (du moins son mécanisme et le couperet), d'après certains documents conservés à Nouméa, à exécuter le roi LOUIS XVI. Elle aurait également décapité ROBESPIERRE et c'est le jour anniversaire de son exécution qu'elle fonctionne dans ce lointain archipel du Pacifique à 22.000 kilomètres de la place de Grève ou elle s'érigeait au nom du Salut Public. Les condamnés sont tous Tonkinois. Les deux premiers ont assassiné en mai 1929 un de leurs compatriotes après l'avoir volé.

Les quatre autres sont les assassins de M. N... en août 1929.

Le "LA PEROUSE" du 27 Juillet les a amenés à Port-Vila, sous la garde de gendarmes, en même temps qu'étaient transportés la guillotine et ses servants volontaires, des condamnés de droit commun.

L'assistance nombreuse, composée d'Européens, d'Indigènes et d'Indochinois, retenue par la police française, ne peut voir l'exécution qu'à distance. Parmi les personnalités, le Procureur Général, le Président du Tribunal français, le Commissaire de police, le Chef du Service de l'immigration. Le Procureur au tribunal mixte. Le Chancelier de la Résidence de France et le Docteur, Chef du service de santé.

Chacun a son tour, soutenu par deux aides à cause des liens, les condamnés franchissent les 40 mètres qui séparent la case ou ils sont enfermés et la guillotine que le Révérend Père LOUBIERE essaie de leur masquer de son mieux. II les précède et les assiste de toute sa foi en leur répétant d'ultimes paroles d'espérance et en leur faisant baiser un crucifix noir. Dès qu'une tête tombe, le Père se précipite vers la case pour chercher un autre condamné et six fois de suite il se porte garant que le geste du bourreau est libérateur.
Six têtes sont tombées.

L'ordre a été parfait. L'exécution a duré vingt minutes. Les condamnés ont eu une attitude calme et résignée. Le bourreau a été félicité pour s'être acquitté de sa tâche en si peu de temps.


LG FROUIN
"Le Néo-Hébridais"
Port Vila,  28 juillet 1931


 


Friday, November 22, 2013

Vụ án "MALO PASS" tại Santô Tân đảo (Phần đầu)

VỤ ÁN MALO PASS tại Santô Tân đảo

Phần đầu


Vụ án MALO PASS tại Santo Tân đảo (New Hebrides/Vanuatu) năm 1929 đã đi vào lịch sử về cuộc sông tha phương của người Phu mô chân đăng Việt Nam tại Tân đảo.
..

Chân dung những người Phu mộ chân đăng VN ở Tân đảo

Đi ngược dòng để tìm hiểu thêm đôi điều về diễn biến của vụ án thời kỳ đó sẽ giúp chúng ta có thêm tư  liệu để suy ngẫm về sự hy sinh cao cả của những  người phu mộ này. Những người cu-li phu mộ Việt nam với tinh thần quật khởi đã dám tổ chức hạ sát tên chủ đồn điền độc ác và tàn bạo, nhằm nhen nhúm ngọn lửa đấu tranh cho quyền sống Tự do và Công lý… Văn xin phép  tạm trích dịch bài  báo về Vụ án MALO-PASS năm 1929 đăng năm 1931 trên báo “Le Néo Hebridais” của Cụ cố Phùa tức  Louis Gabriel FROUIN viết về vụ án đó.


Bài báo viết như sau:

 …”Âm mưu chống đối lại chủ đồn điền do những người phu mộ Việt nam tổ chức và thực hiện, đã gây nên án mạng tai đảo Malo thuộc đảo lớn Santô  hồi tháng bẩy năm 1929.


Vụ án Malo Pass đã xẩy ra tại đảo Malo Island thuộc đảo Santo

Đồn điền “Malo Pass” tại đảo này thuộc quyền sở hữu của Công ty Nông lâm và Khoáng sản tại Tân đảo. Họ thuê người nước ngoài quàn lý và khai thác đồn điền.  


Hợp đồng của người đốc công quản lí cũ sắp hết hạn vào cuối tháng 5 năm 1929. Công ty đã phải lo chuẩn bị tìm người để kế nhiệm. Một người quản lý mới tên là N. (dấu tên) đã được tuyển lựa và đến nhậm chức ngày 01/06/1929. Trong vòng một tháng hai người quản lí cũ và mới  đã hoàn tất thủ tục bàn giao toàn bộ công việc theo quy định của Công ty.

Nhân công làm việc trong đồn điền thời đó bao gồm người địa phưong và một số cu-li phu mộ Bắc kỳ tới từ Đông dương năm 1928. Trong số đó người ta nhận thấy sự nổi bật về tính khí bất thường của 4 người phu mộ Việt nam. Đại thể  là “tinh thần lao động kém”, “tính khí ngỗ ngược”. Và chính sự bất thường này có thể  làm  tấm gương xấu cho những người khác noi theo. Ông  chủ N. đã làm báo cáo lên Công ty  về  tình trạng khai thác bị trì trệ và giảm sút trong đồn điền. Đồng thời nêu những biện pháp cứng rắn cần áp dụng nhàm ổn định lại tình thế lúc bấy giờ





Công ty Nông lâm và Khoáng sản ở Tân đảo New Hebrides

Để ổn định tình hình, ông  chủ N.  đã không ngần ngại dùng roi gân bò, nắm đấm và cú đá nhiều lúc quá mạnh làm cho dân cu-li bị ngất sỉu. Ông cũng  không ngần ngại bắt nhốt những người mà ông ta  cho là cứng đầu, biếng nhác vào các hố đào xâu dưới đất. Một kiểu  nhà tù trong đồn điền lúc bấy giờ. Phía trên được che kín bằng những phiến gỗ lớn cực dầy và  rất nặng, trên lợp  tôn. Nhưng thông thường trong dân gian có câu: “ai bị giam cầm  tất sẽ phải tìm kế thoát thân”. Bởi vậy thường đã  có người thoát ngục trốn vào rừng, nhưng vẫn được đồng bào của họ cưu mang tiếp tế. Cũng chính việc đối xử  quá ư hà khắc  đó  đã gây cho người lao động tinh thần  phản kháng, trong số đó có  bốn người cu-ly Bắc kỳ nói trên  đã   nẩy sinh âm mưu loại trừ ông chủ.


Trung tuần tháng 8 năm đó, Tổng  giám đốc Công ty đi kinh lý và hết sức khen ngợi  ông   N. vì đã thiết lập được trật tự đồng thời đã cải thiện được tình hình kinh tế của đồn điền này. Lại còn khuyến khích ông  N. phải mạnh tay hơn nữa. Đến ngày 25 tháng 8, ở Malo-Pass  N. tiễn chân bạn là Kỹ sư trắc địa sau khi hoàn tất công việc đo đạc đi sang đảo Ao-rê bằng thuyền máy. Mãi chiều tối mới trở lại đồn điền một mình.



Tất nhiên là 4 người cu-li đã chuẩn bị cơ hội để thục hiện âm mưu đen tối của họ. Ông N. về nhà nghỉ ngơi. Chưa kịp lên giường nằm, lập tức một người đến gõ cửa  báo là tên trốn  tù hôm trước  hiện đang nấp trong xó bếp của trại. Với bộ  đồ ngủ pijama, ông  N. một tay cầm đèn pin, tay kia cầm khẩu súng ngắn đi thẳng xuống bếp.  Ông chiếu thẳng đèn pin vào mặt làm cho loá mắt. Không dám chông cự, người cu-li bị lôi về trói vào cột ở ngoài hiên nhà ông chủ.

Khoảng nửa đêm  hôm ây, 4 tên cu-li bắt đầu thực hiện kế hoạch của minh. Trước hết, họ lén  cởi trói và đưa bạn về trại giấu ở gầm giường. Lần thứ hai họ đánh thức ông chủ và báo tin là tên tù đã xổng và đang trốn trong trại. Lập tức ông chủ cầm đèn  pin và khẩu súng  lục đi theo mấy người xuống trại. Lúc đầu ông ta lùng sục ở chỗ tủ đựng thức ăn nhưng chẳng có gì. Một người mách là người tù trốn dười gầm giường. Ông chủ cúi xuống soi đèn vào gầm giường. 4 người cu-li  đứng đằng sau chỉ chờ có thế. Người thứ nhất đập hai nhát búa vào gáy ông chủ, những người khác dùng  dao phát cỏ đâm liên  tiếp vào thi thể bất động nằm dưới đất.

Cuộc điều tra của chính quyền sau đó đã xác định  là trong vụ án này còn có một số người khác tham gia. Ít  nhất có khoảng  hai chục người liên quan trong vụ án đêm hôm đó. Có nguồn tin xác  minh lai lịch  4 thủ phạm khi làm thủ tục  đăng ký đi phu sang Tân đảo đã mượn tên tuổi giả mạo, nhằm trốn trành pháp luật ở Bắc kỳ (?). Sau đó, quyết định của Toà án Pháp tại Port Vila xử: 4 người trực tiếp giết chủ lãnh án Tử hình. Ba người khác kể cả tên trốn ngục lãnh án khổ sai chung thân. 7 người khác lãnh án khổ sai có hạn định. 6 người còn lại chỉ bị khiển trách. Trong lúc Toà tuyên đọc bản án thì tầu tuần dương hạm  “Regulus” cũng vừa tới, neo đậu trong Vịnh Vila.



Tòa án cũ Port Vila - Nơi đã quyết định số phận của các thủ pham ván Malo Pass

Để bảo đảm an ninh cho khu vực, tầu “Regulus”  được  lệnh   nhanh chóng đưa nhũng kẻ bị kết án tạm thời  lưu đầy sang Tân Thế giới để giam giữ. Đồng thời sẽ chờ sự  phán quyết cuối  cùng  của Toà kháng  án (Tribunal de Cassation) ở Noumea.

Nhưng  sau đó,  đơn  yêu  cầu xin xá tội cho những kẻ gây án giết người đó đã không được chấp nhận.

* Tên N. tức Chevalier
LG Frouin - Báo "Le Néo Hebridais"


Kì sau: "Máy chém dưới bóng dừa"







Bia mộ 6 người Việt Nam  bị hành hình ngày 28/07/1931 tại Port Vila Tân đảo.


 




Bài báo nguyên bản tiếng Pháp

Rassemblement des Travailleurs Vietnamiens dans une plantation

L'AFFAIRE DE MALO-PASS (1929)







L'AFFAIRE DE MALO-PASS (1929)
(Première partie)


Une machination contre un colon, bâtie et menée à son terme criminel par des recrutés tonkinois sur l 'île de Malo en juillet 1929.



… La propriété" Malo-Pass",sur l 'île de Malo appartenait à I’ époque à la Compagnie Agricole e t Minière des Nouvelles-Hébrides qui employait des gérants pour l‘exploitation. Peu avant l'expiration du contrat du gérant contre-maître fin mai 1929, la Compagnie s'est préoccupée de son remplacement en s'assurant le concours de N... qui a pris ses fonctions le 1er juin 1929. Les deux gérants ont collaboré pendant environ un mois en guise de transition.


La main-d’œuvre employée sur cette plantation était composée d'indigènes et de Tonkinois arrivés directement d 'Indochine en 1928. Et parmi eux, quatre hommes se sont fait remarquer par leur différence : "mauvaise volonté au travail" et "nature violente".



Il est facile de deviner qu'avec ces comportements "frondeurs" ils aient acquis une grande emprise sur les autres travailleurs.


Déjà, pendant la période de transition de prise de fonction, N... avait signalé à la direction d e la Compagnie que  l'exploitation était dans un état déplorable et on lui a suggéré de "reprendre les choses en main". Ainsi donc, devant son attitude ferme, ces quatre Tonkinois, s 'inquiétant probablement de perdre leur ascendant sur les autres, se sont concertés pour former le projet de se débarrasser de lui.

Il faut dire que N..., dans le souci du meilleur rendement n'hésitait pas à utiliser le “nerf de bœuf”. Il lui arrivait aussi de mettre les recrues indociles et paresseuses dans une fosse creusée dans le camp et de recouvrir le tout avec des tôles et des madriers. C'était un peu la “prison” de la plantation. Mais qui dit prison dit évasion, souvent, et il y en eut une, celle d'un Tonkinois qui est allé vivre dans la brousse, ravitaillé par ses compatriotes de la plantation.

A la mi-août, le directeur de la compagnie est venu en visite d'inspection, a constaté que tout allait beaucoup mieux et que le rendement dans le travail s’était amélioré. Il n'a pu qu'encourager N... à poursuivre dans cette voie.

Le 25 août, N... accompagne un ami sur sa plantation et revient à la tombée de la nuit. Il trouve alors à Malo-Pass mon sieur A ..., géomètre de la Compagnie avec qui il a dîné puis ce monsieur A4... est parti avec sa pétrolette à Aoré sur l'autre rive du Bruat où il procédait à des travaux de délimitation. N... se trouve donc seul... Et évidemment, on s’en doute, c'est le moment que vont choisir les quatre comploteurs pour mettre à exécution leur projet.

L'un était chargé d'aller prévenir N... que l'évadé était dans la cuisine des coolies et qu’il se ravitaillait. Le colon, en pyjama, se munit d'une torche et de son revolver et va à la cuisine. Il le retrouve en train de fouiller dans un sac de riz. N... dirige brusquement son faisceau lumineux sur lui et le met en joue. Ebloui et pris de peur, le tonkinois lâche le sabre d'abatis qu’il dissimulait derrière son dos et se laisse entraîner sans résistance jusqu'à la maison du colon où il est attaché sur la véranda.

Les quatre autres décident d'en finir immédiatement, avec leur patron. IIs libèrent leur ami, et le mettent cette fois sous I'un des lits de leur habitation commune. Et pour la seconde fois, ils appellent N... lui disant que le prisonnier s’était échappé à nouveau et qu'il était dans une case cherchant de la nourriture. Le colon les suit à nouveau au camp des travailleurs.

Tenant de la main gauche sa lanterne électrique et de la droite son revolver, N... se dirige vers le coin du garde-manger et ne trouve rien. L'un des Tonkinois lui explique alors qu’ayant eu peur, l’autre s'est caché sous le lit. Le colon se baisse , les quatre hommes derrière lui …

Le premier lui assène alors deux coups de hache derrière la tête, suivi des autres qui enfoncent leurs sabres d'abattis dans le corps étendu, mort.

L'enquête menée après cet assassinat a montré qu’il y avait bien eu complot monté par ces quatre Tonkinois aidés par une vingtaine d'autres qui se trouvaient devant et autour de la case cette nuit là. Les coupables ont reconnu avoir scellé un pacte avec les autres autour de deux bouteilles de vermouth, s’assurant ainsi le concours de tous et leur mutisme. Renseignements judiciaires pris sur les antécédents des accusés il s'est avéré qu'ils étaient venus travailler aux Nouvelles-Hébrides sous de faux noms, certainement dans l'espoir que resteraient inconnus les crimes qu'ils avaient commis au Tonkin.

Après un long procès au Tribunal Français de Port-Vila, l e verdict est rendu tard dans la soirée : Les quatre Tonkinois sont condamnés à mort. Trois autres dont l'évadé aux travaux forcés à perpétuité, sept autres aux travaux forcés à temps et les six derniers sont acquittés. Lors de la lecture d u verdict, l 'Aviso escorteur "REGULUS" de la Marine Française était en rade de Port-Vila depuis quelques heures...


Par mesure de sécurité et d'ordre, les condamnés ont été provisoirement déportés en Nouvelle Calédonie par le "REGULUS" Pour attendre le résultat de leur pourvoi en Cassation puis du recours en grâce qui furent rejetés par la suite.

" le Néo-Hébridais"
Journal de M. FROUIN