Powered By Blogger

Friday, August 3, 2018

La colonisation des Nouvelles Hebrides et les Indochinois - Phần 4

TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ NGƯỜI PHU MỘ
Việt Nam ở Tân đảo đầu Thế kỉ 20
Documentations historiques
des travailleurs engagés vietnamiens
Aux Nouvelles Hebrides/Vanuatu au 20eme siècle.

aRose11.gif


Thành quả lao động của người phu mộ Việt nam đầu thế kỉ 20 còn ghi đậm dấu ấn tại Tân đảo
(New Hebrides/Vanuatu)

Jean VanSon dịch và lên trang Blog

Lược dịch văn bản

Người dịch văn bản dưới đây xin mạn phép được giãi bầy quan điểm.
Nói chung, bản thân cũng đã từng đọc qua một số tư liệu, tài liệu và sách đề cập đến Tân đảo (New Hebrides/Vanuatu). Tuy nhiên, người  dịch đã chọn văn bản mang tên : « La colonisation des Nouvelles Hebrides et les Indochinois » để dịch vì có rất nhiều tình tiết liên quan đến người phu mộ Việt nam mà còn  ít người biết đến. Mục đích của việc lựa chọn này nhằm giúp cho đông đảo bà con anh chị em nguyên là Việt kiều sinh trưởng ở Tân đảo xưa kia sẽ biết rõ thêm về lịch sử của cha ông chúng ta dưới thời thực dân đô hộ thế kỉ 20 mà thôi.
Trên thực tế, cuộc sống ở đâu cũng có hai mặt. Một mặt, chúng ta đều  được nghe kể chuyện hoặc đọc những bài viết về sự áp bức bóc lột đến tàn nhẫn của cai kí và chủ đồn điền. Nhưng mặt trái của thời kì ấy thì nhiều người lại chưa biết hoặc không quan tâm đến. Chúng ta lên án chế độ thực dân nhưng chúng ta chưa thấy hết được những điểm yếu của chính người phu mộ.
Xin nêu mấy điểm chính được ghi nhận trong các đồn điền, đã làm cho người phu mộ tự đưa mình vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Đó là các tệ nạn rượu chè, trai gái, cờ bạc, trộm cắp ở khắp các đồn điền trên hầu hết các đảo gần xa ở Tân đảo.
Một số vụ say rượu, trai gái dẫn đến ẩu đả gây thương tích hoặc án mạng.
Tệ nạn cờ bạc phải vay nợ của chủ với lãi suất cao. Nhiều trường hợp sau 5 năm không trả được nợ phải xin ở lại đăng kí thêm 5 năm. Hoặc túng bấn đi trộm cắp dẫn đến tù tội vân vân… Ngoài ra nhiều vụ việc như lãn công, giả vờ ốm, làm việc không năng suất cũng làm cho người chủ xót xa vì phải bù lỗ. Thậm chí có cả việc một ông đốc công hoặc một ông cại nọ sắn sàng nhận một ít tiền franc đút lót để làm lơ chuyện này chuyện khác. Đó cũng là những nguyên nhân khiến cho chủ bức xúc phải sử dụng đến hình phạt, nhiều khi quá mức cho phép.
Không ai có quyền lên án những hậu quả tai hại mà các tệ nạn xã hội đó đã làm hệ lụy đến cuộc sống của cha ông chúng ta. Đặc biệt là chúng ta không khỏi bùi ngùi rơi lệ khi có dịp đi qua hoặc viếng thăm các khu nghĩa trang ở Vila, Santo, Malicolo, Epi v.v... Nếu tổng kết lại, trong công cuộc khai phá làm giầu cho Tân đảo thì cũng có hàng ngàn người xấu số đã phải gửi gắm nắm xương tàn nơi đất khách. So với tổng số phu mộ trên dưới 23 ngàn người có mặt ở Tân đảo thời bấy giờ thì tỷ lệ mất mát là quá lớn. Tính ra cứ 100 người thì có gần 5 người tử vong.
Người dịch sẽ cố gắng dùng từ ngữ  thật sát với từng thời điểm để giúp người đọc dễ hiểu hơn. Rất có thể có những sai sót nhầm lẫn nhất định trong khi dịch thuật. Vậy xin quý vị độc giả lượng thứ. Xin trân trọng cảm ơn.

Trích dịch nguyên bản Luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử :
« La Colonisation des Nouvelles Hébrides et les Indochinois »
(Cuộc xâm chiếm Tân đảo làm thuộc địa và những người dân đến từ xứ Đông dương).
Tác giả: Frederique TAILHADE
Dưới sự chỉ đạo của : Ông CARBONELL – 1987


aRose11.gif



PHẦN BỐN

Quan Thanh tra Lao động

Thanh tra Lao động ở Tân đảo có hay không? Tất nhiên là có. Kể từ trước khi bắt đầu có những chuyến tầu đầu tiên chở người phu mộ tông-ki-noa đến Tân đảo. Các điền chủ đã gọi quan thanh tra lao động là “con quái vật”. Vì mỗi lần đi thị sat, ông ta soi mói đến từng chân tơ kẽ tóc về những sai phạm của các điền chủ đối với người lao động.

Trách nhiệm của quan thanh tra rất lớn và nặng nề. Đó là việc theo dõi giám sát buộc các điền chủ phải tôn trọng và thực hiện đúng các điều khoản đã kí kết trong bản hợp đồng lao động. Nhưng dù tích cực năng động đến đâu cũng thường quá muộn màng. Vì tất cả những văn bản ghi nhận của thanh tra lao động về những vụ việc quan trọng thường được giữ bí mật và hầu như ít được công bố rộng rãi. Trừ một vài vụ việc đơn giản không liên quan đến ai.

Cũng có một vài sự việc tương đối quan trọng đã được đăng tải lên báo chí. Nhưng đều nói rõ là theo “tin đồn đại” chứ không phải của thanh tra lao động.
Còn các bản báo cáo thực của thanh tra lao động đã được điền chủ cấu kết với chính quyền địa phương chỉnh sửa nhằm giảm tội cho chủ  và quy phần trách nhiệm cho người cu-li phu mộ tông-ki-noa.

Ngày 28/9/1925, ngài toàn quyền Pháp tại khu vực đã viết báo cáo gửi ngài Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Daladier về việc Chính phủ Đông dương quyết định ngừng việc tuyển mộ lao động sang Tân đảo vì đã nhận được bản cáo trạng cuả quan Thanh tra Lao động Đờ La-ma (Delamarre) như sau:
“Tôi thừa nhận là có sự việc đối xử tàn tệ của điền chủ đối với người lao động và tôi cũng xin xác nhận là có những sự vi phạm của một vái điền chủ gây nên tình trạng căng thẳng, nhưng tôi đánh giá đó là sự quân bình và không nên vơ đũa cả nắm. Tôi trân trọng đề nghị quý Ngài nên xem xét cân nhắc kĩ cái lợi hại của tình hình chung và tiếp tục cho phép các điền chủ được thâu nhận những lao động tông-ki-noa, một lực lượng công nhân không thể thiếu trong các đồn điền hiện nay. Việc ngừng tuyển mộ lao động đông dương giữa lúc Công ty Bất động sản của Pháp tại Tân đảo đang trên đà phát triển, ví như một nhát búa có thể giết chết Công ty này và các chi nhánh của nó”.

Tháng chin năm 1929, người ta đã được đọc trên báo Néo Hebridais:
“Quan thanh tra lao đông Ô-giê (Auger), với mục đích cảnh báo các điền chủ, ngài đã thông báo cho công đoàn của các điền chủ, về việc ngài đã nắm rõ tình trạng đối xử bất công vời người lao động tông-ki-noa trong một số đồn điền gây nên sự phản kháng của chính phủ Đông dương. Thí dụ: một tên đốc công trẻ nọ đã không nương tay khi dùng roi gân bò (cặc bò) đánh túi bụi vào thân thể những người lao động.
Tuy vậy ngài Ô-giê cũng đã xác nhận là tình hình chung trong các đồn điền đã ổn định tương đối tốt. Đời sống của người lao động nói chung đã được cải thiện. Nhưng cái chính yếu là ngài muốn nhắc nhở các điền chủ phải tôn trọng và thực hiện đúng các điều khoản đã ghi rõ trong văn bản hợp đồng kí kết với người lao động. Ngài cũng đã lưu ý nhắc nhở các điền chủ biết rõ là chính quyền địa phương đã quan tâm hơn nhiều đến người lao động từ khi có bản báo cáo của Ngài Đờ La-ma năm 1925”.

Một vài trường hợp hiếm hoi buộc quan thanh tra lao động quyết định ngừng việc cung cấp lao động tông-ki-noa cho một số điền chủ. Hành động này không thể coi là quan thanh tra lao động đã đứng hẳn về phía những người cu-li tông-ki-noa để giúp đỡ họ. Vì những người cu-li làm việc trong các đồn điền hẻo lánh hoặc tại những đảo xa xôi đã bị cô lập. Vì không có quyền hủy hợp đồng nên họ không còn sự lựa chọn nào khác, họ đã bị dồn ép vào thế chân tường, tiến thoái lưỡng nan.

Như vậy, người cu-li tông-ki-noa chỉ còn trông chờ ở sự can thiệp và giúp đỡ công bằng của quan thanh tra lao động mà thôi. Nhiệm vụ cũng như trách nhiệm chính của quan thanh tra lao động là bảo vệ quyền lợi của người lao động, nhưng ý nguyện tốt đẹp của quan thanh tra không mấy khi thực hiện được. Vì tất cả những báo cáo của quan thanh tra thường bị chính quyền kiểm duyệt và sửa đổi cắt xén.

A.  Hành trình truyền bá tín ngưỡng tôn giáo.

Cu-li tông-ki-noa là những người thuộc quyền « bảo hộ » của người Pháp (sujets protégés francais). Số lượng đông đúc về nhân khẩu của họ đã vượt xa số kiều dân Pháp ở Tân đảo. Điều mà đa số các vị linh mục dòng Đức Bà đồng trinh (Pères maristes) và các nhà truyền đạo quan tâm hàng đầu trong việc củng cố và phát triển khối cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo này.

Cụ Cố-tà (Henri Coustard de Nerbonne)

Năm 1925, linh mục Ê-min Rê-mông (Emile Raymond), một vị tông đồ của Tòa Thánh đã viết thư cho Đức cha Đuy-răng Vô-ga-rông (Durand Vaugaron) như sau:
“Ước vọng chung của chúng ta là mong muốn Chính phủ can thiệp bằng cách truyền bá rộng rãi vấn đề liên quan đến tôn giáo trong hàng ngũ những người cu-li tông-ki-noa, đặc biệt đối với những người có nguyện vọng định cư lâu dài ở xứ sở này. Nhất là những người có xuất xứ từ những vùng công giáo ở Việt nam rất có thiện cảm  với đạo Gia-tô và cũng rất dễ dàng trở thành tín đồ của dòng đạo này. Bản thân tôi cũng rất lấy làm buồn phiền mỗi khi phải chứng kiến cuộc sống bần cùng của những người cu-li này nọ. Suy cho cùng thì họ cũng là những con người bị sa cơ lỡ vận vì miếng cơm manh áo.

Họ cũng mong muốn thoát ra khỏi cảnh bần cùng túng thiếu. Đôi khi chỉ cần chúng ta cố gắng nhẫn nại một chút để ngồi nghe họ cởi mở nỗi niềm trút bầu tâm sự, là đã ít nhiều giúp họ giảm bớt được nỗi đau khổ trong lòng. Trước khi gửi bức thư này, tôi mạn phép muốn nói đôi điểu về các trường học. Con cái của người cu-li tông-ki-noa thường rất thông minh, chúng có thể theo học lớp giảng dậy có quy mô theo nền văn hóa châu Âu. Nhất là trong điều kiện mà chúng không phải tiếp xúc hàng ngày với các hủ tục và tập quán cổ truyền của đất nước quê hương cha mẹ chúng. Nếu được như vậy thì chắc chắn trong vài năm tới, chúng ta sẽ đào tạo được lớp người mới có đầy đủ khả năng phục vụ tối ưu cho chính sách mở rộng thuộc đia tại nơi này. Đó cũng là một kế sách mở rộng tín ngướng đạo Gia-tô nhằm chông đối lại sự bành trướng nguy hiểm về đạo Tin lành của người ăng-lê Anh quốc...”.



Chân dung một nhà truyền đạo (Mục sư) người Anh tại Tân đảo

Bức thư này cũng đã khẳng định câu nói của R. Cust, một vị mục sư người Anh như sau: “Nhà truyền đạo người Pháp không những  có tài giảng đạo về Thiên chúa giáo mà cả cho đạo lý của nước Pháp nữa”.

Chính vì vậy mà tư tưởng truyền bà tín ngưỡng đã trở thành cuộc hành trình không mệt mỏi và đầy nguy nan sóng gió, khởi đầu từ những năm 1927 trên các đảo xa xôi hẻo lánh ở Tân đảo. Và hậu quả là có một số nhà truyền đạo đã trở thành mồi săn của các bộ lạc thổ dân ăn thịt người (canibalisme). Họ đã tử vì Đạo.

“Trích dẫn từ cuốn sổ ghi chép về Thế giới Nội tâm của người cu-li tông-ki-noa và những người gốc đông dương khác”.

Cuốn sổ này bắt đâu được sử dụng ghi chép từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 5 năm 1938. Cuốn sổ này vừa để ghi số liệu kế toán vừa để ghi chép những sự việc và sự kiện do linh mục Đuy-răng Vô-ga-rông (Durand Vaugaron), người chịu trách nhiệm chính trong việc quản lí những người phu mộ cu-li tông-ki-noa theo đạo thiên chúa. Linh mục Đuy-răng đã ghi chép tỉ mỉ tất cả các sự việc trong cuộc hành trình truyền đạo trên các đảo.


Tầu con thoi bằng gỗ Saint Joseph chạy liên đảo cũng gần giống con tầu này

Tầu gỗ nhỏ Xanh Giô-dép thường xuyên bị sự cố về máy móc (Saint Joseph) có nhiệm vụ đưa linh mục đi kinh lí các đảo nhỏ hẻo lánh, thăm các đồn điền và cả những người cu-li tông-ki-noa nữa. Nhưng khi đọc cuốn sổ ghi chép này, người ta cảm thấy áy náy. Vì linh mục Đuy-răng thiên về việc chú ý đến các công việc của các linh mục trong các nhà nguyện và đời sống của các điền chủ hơn là quan tâm chăm sóc đến phần hồn của các con chiên tông-ki-noa.


Môn giải trí ưa thích của người cu-li Tông-ki-noa ở Tân đảo

Năm 1931, Linh mục Đuy-răng ghi vào sổ như sau:
“Trong một đêm nọ, trộm đã hỏi thăm chiếc rương hòm của ông “cai” nọ và đã cuỗm đi tất cả các đồ dùng cộng thêm số tiền mặt là 1.000 quan (franc). Ông “Cai” nọ đã đến gặp tôi, vừa khóc mếu vừa kể rõ sự việc và nói nguyên văn như sau: “An-nam-mít tú-dua duê, tú-dua phuy-mê ô-bi-ôm. A-lờ tú-dua rờ-gác-đê cẩm xà pua vô-lê lác-dăng nu-dốt. In phô cáp-mằn đề-phăng-duy duê, đề-phăng-đuy phuy-mê ô-bi-ôm. A-lờ, vô-lê mỏ nhá phi-ní». (Annamite toujours jouer, toujours fumer l’opium, alors toujours regarder comme Ça pour voler l’argent nous autres. Il faut le capman (le patron) défendre de jouer, défendre de fumer l’opium, alors, voler moyen fini). (Capman ở đây đồng nghĩa với chữ government của Anh nói theo tiếng bislama là nhà cầm quyền)


Đệ tử của nước cộng hòa Làng bẹp (Republique des Opiomanes)
Bạn đèn truyền thống của Nàng Tiên nâu

Có thể hiểu ý của ông cai nọ là như thế này : « dân an nam thích cờ bạc, thích hút thuốc phiện, luôn rình mò để ăn cắp cuả người khác thôi. Nhà nước phải ra lệnh cấm đánh bạc, cấm hút thuốc phiện thì tệ nạn trộm cắp sẽ chấm dứt ». Phải công nhận là lý luận của người « cai » này cũng khá chuẩn xác và thông minh. Ông cai hiểu rõ đồng bào của ông hơn chúng ta nhiều. Trong số cu-li tông-ki-noa cũng có những người có ý thức và kỉ luật, nhưng không nhiều.

malo10.jpg
Linh mục Pierre Loubiere

Đúng ra thì số cu-li ngoan đạo cũng không làm cho linh mục hài lòng. Cụ thể là sau khi được làm lễ rửa tội, con chiên chỉ biết làm dấu thánh giá, đọc tên Đức chúa Giê-su và A-men mà thôi. Ngoài ra không hề thuộc một câu kinh kệ nào cả. Thật là thất vọng.
Một điều thật trớ trêu đã xẩy ra. Một hôm mấy con chiên mời linh mục đi thăm nơi thờ cúng của họ. Linh mục đã mục kích một cảnh lộng lẫy được trang hoàng trong khu nhà ở của cu-li. Họ đã xây cất một loại đền thờ rất đẹp, nhưng theo kiểu chùa chiền (pagode). Và họ đã mời linh mục đích thân đọc kinh thánh cử hành Lễ khai trương.

Linh mục đã ghi nhận một điều xứng đáng được khen ngợi, đó là lòng  hào tâm rộng rãi của các con chiên khi góp tiền vào công quỹ của Nhà thờ trong các dịp Lễ Rửa tội, tổ chức cưới xin cũng như làm lễ ban phước lành cho những người xấu số. Họ sống trong nghèo nàn nhưng rất hào phóng đối với tín ngưỡng. Trên thực tế những cuộc hành lễ dành cho người chết nhiều hơn các nghi lễ khác. Nhất là sau dịch bệnh lan truyền từ đảo Păng-ti-cốt (Pentecote) đã gây tổn thất nặng nề. Sự tín ngưỡng và lễ bái có làm giảm thiệt hại hay không thì không rõ. Nhưng người xấu số đã phài chia tay từ bỏ cõi Trần để lên Thiên đàng  chiếm con số khá đông.
.

Hình ảnh chặt phá rừng khai hoang trồng dừa ở Tân đảo.

Linh mục Đuy-răng Vô-ga-rông có sẵn một bàn thờ di động tháo lắp dễ dàng. Có thể đặt bàn thờ ở bất cứ nơi nào cần cử hành Lễ. Trong một nhà kho hay ở ngoài trời, buổi Lễ chầu thường cử hành lúc 3 giờ sáng. Vì 5 giờ đúng là các môn đồ đã phải tập trung ở nơi làm việc hàng ngày.
Ngoài việc chăm sóc phần hồn cho các tín đồ, linh mục còn chịu trách nhiệm giải quyết việc liên lạc giữa họ với thân nhân gia đình ở quê hương Bắc kì. Đặc biệt trong việc chuyển gửi thư từ và nhất là chuyển tiền qua ngân khố đến tận tay gia đình thân nhân của họ. Và đôi khi phải giải quyết cả những vụ kiện tụng, ca thán của họ nữa.


Linh mục Durand Vaugaron nói thành thạo tiếng Việt Nam

Linh mục đã viết trong một bản báo cáo như sau :
« Các cuộc đi kinh lí hàng năm thường kéo dài một tháng đến 6 tuần lễ. Tôi có dịp gặp gỡ từ 300 đến 350 người cu-li công giáo. Đã tổ chức cử hành Lễ chầu, đọc kinh và ban Lễ thánh, giải quyết  một vài vụ hôn nhân theo luật lệ tôn giáo v.v… 
Đến bất cứ nơi nào, tôi cũng được các điền chủ và các cu-li công giáo đón tiếp một cách trọng thể. Đắc biệt là các tín đồ tông-ki-noa đã dành cho tôi một nghi lễ đón tiếp theo phong tục truyền thống của người dân đạo Ki-tô xữ Bắc kì. Một số cu-li công giáo đã không nghiêm minh trong quan hệ yêu đương tổ ấm vợ chồng. Có người đã bỏ rơi vợ con ở quê hương. Có cả những đôi vợ chộng chỉa rẽ trên đường đến Tân đảo hoặc ngay trong các khu đồn điền. Tình hình rất phức tạp. Nhưng đó là tự do cá nhân không ai có quyền can thiệp, áp đặt được ».

Dù sao, trong bất cứ hoàn cảnh nào thì linh mục cũng không thể nào cử hành lễ thành hôn cho đôi vợ chồng nọ, trước khi nhận được   thông tin thẩm tra về hoàn cảnh và nguồn gốc của họ thông qua các giáo xứ tại Bắc kì xác nhận là họ thực sự chưa vợ chưa chồng.
Mặt khác, vị Linh mục và Nhà thờ đã làm khâu trung gian thay cho Chính quyền, nhằm làm cầu nối liên lạc giữa người cu-li công giáo với gia đình thân nhân của họ ở quê hương. (xem bức thư)



Một bức thư của bà Ngô Thị Huệ làng Kiên trung Huyện Hải hậu Tỉnh Nam định gửi Cụ Cố Tà ở Tân đảo năm 1929

Người dân Bắc kì dưới con mắt của người da trắng

Qua tất cả những đoạn văn của bài viết, người ta nhận ra rằng, người lao động đến từ xứ Đông dương có một cái tên gọi không nhất quán. Ví dụ : những danh từ như an-nam (annamites), tông-ki-noa (Bắc kì) hoặc người dân xứ Đông dương (indochinois) không phải để chỉ định cho từng khu vực, mà vấn chỉ là một người duy nhất mà thôi. Đó là người cu-li đến từ Bắc kì có tên gọi tông-ki-noa.
Các điền chủ không có  sự  phân biệt nào khác. Họ gọi chung tất cả cu-li đến từ Bắc kì là « tông-ki-noa ». Thậm chí có điền chủ còn gọi người cu-li là « đám mọi man rợ » (la meute). Còn cá nhân người cu-li không là cái gì đối với điền chủ cả. Nhưng trong một số đồn điền, người chủ thường gọi người làm theo số báo danh đeo trên ngực.
Điền chủ thường không bao giờ nói lên sự thật. Họ chỉ nói cái hay cái tốt của họ trong việc khai thác đât đai và làm giầu. Còn khi nói về người lao dông tông-ki-noa thì hầu như cái gì cũng đều bình thường theo khuôn khổ cả.


Khu vực Nhà thờ giáo xứ dòng Đức Bà Mariste tại Port Vila Tân đảo

Đối với các vị truyền giáo thì quan điểm chung của họ đều giống nhau ở chỗ đánh giá người cu-li có phần đặc sệt tiêu cực. Nào là trộm cắp, cờ bạc rượu chè, thuốc phiện, lười biếng, rắn đầu v.v… Kết luận :  Họ là những người hiền lành thông minh khi còn nhỏ tuổi, nhưng càng lớn tuổi lại hư đốn mất dậy (pervertis), Như vậy rõ ràng là phải tập trung giáo dục, truyền bá niềm tin (la Foi) và tình yêu nước Pháp cho lớp người son trẻ này.


Trên thực tế, chỉ sau thời kì được quyền tự do định cư năm 1945 (Résidence libre) thì người Việt Nam (Bắc kì) mới có đủ tư cách pháp nhân là một con người thực sự theo đúng nghĩa của nó.

Xin mời quý vị theo dõi tiếp phần 5 trong kì tới.

aRose11.gif

Người dịch xin trân trọng kính chào và cảm ơn quý vị đã dành thời gian quý hiếm để ghé thăm Blog Tân đảo Xưa và Nay. Và  đặc biệt đã quan tâm đến lịch sử về cuộc sống tha phương của người phu mộ Việt Nam tại Tân đảo Thế kỉ 20.

Xin chúc mọi người vui khỏe và may mắn.


chao tam biet.gif