Powered By Blogger

Wednesday, July 18, 2018

La Colonisation des Nouvelles-Hebrides et les Indochinois - Phần 3


TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ NGƯỜI PHU MỘ
Việt Nam ở Tân đảo đầu Thế kỉ 20
Documentations historiques
des travailleurs engagés vietnamiens
Aux Nouvelles Hebrides/Vanuatu au 20eme siècle.
 aRose11.gif

Jean Vanson biên dịch và lên trang Blog


Hình ảnh chặt phá rừng hoang ở Tân đảo năm 1939

Lược dịch văn bản

Người dịch văn bản dưới đây xin mạn phép được giãi bầy quan điểm.
Nói chung, bản thân cũng đã từng đọc qua một số tư liệu, tài liệu và sách đề cập đến Tân đảo (New Hebrides/Vanuatu). Tuy nhiên, người  dịch đã chọn văn bản mang tên : « La colonisation des Nouvelles Hebrides et les Indochinois » để dịch vì có rất nhiều tình tiết liên quan đến người phu mộ Việt nam mà còn  ít người biết đến. Mục đích của việc lựa chọn này nhằm giúp cho đông đảo bà con anh chị em nguyên là Việt kiều sinh trưởng ở Tân đảo xưa kia sẽ biết rõ thêm về lịch sử của cha ông chúng ta dưới thời thực dân đô hộ thế kỉ 20 mà thôi.
Trên thực tế, cuộc sống ở đâu cũng có hai mặt. Một mặt, chúng ta đều  được nghe kể chuyện hoặc đọc những bài viết về sự áp bức bóc lột đến tàn nhẫn của cai kí và chủ đồn điền. Nhưng mặt trái của thời kì ấy thì nhiều người lại chưa biết hoặc không quan tâm đến. Chúng ta lên án chế độ thực dân nhưng chúng ta chưa thấy hết được những điểm yếu của chính người phu mộ.
Xin nêu mấy điểm chính được ghi nhận trong các đồn điền, đã làm cho người phu mộ tự đưa mình vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Đó là các tệ nạn rượu chè, trai gái, cờ bạc, trộm cắp ở khắp các đồn điền trên hầu hết các đảo gần xa ở Tân đảo.
Một số vụ say rượu, trai gái dẫn đến ẩu đả gây thương tích hoặc án mạng.
Tệ nạn cờ bạc phải vay nợ của chủ với lãi suất cao. Nhiều trường hợp sau 5 năm không trả được nợ phải xin ở lại đăng kí thêm 5 năm. Hoặc túng bấn đi trộm cắp dẫn đến tù tội vân vân… Ngoài ra nhiều vụ việc như lãn công, giả vờ ốm, làm việc không năng suất cũng làm cho người chủ xót xa vì phải bù lỗ. Thậm chí có cả việc một ông đốc công hoặc một ông cại nọ sắn sàng nhận một ít tiền franc đút lót để làm lơ chuyện này chuyện khác. Đó cũng là những nguyên nhân khiến cho chủ bức xúc phải sử dụng đến hình phạt, nhiều khi quá mức cho phép.
Không ai có quyền lên án những hậu quả tai hại mà các tệ nạn xã hội đó đã làm hệ lụy đến cuộc sống của cha ông chúng ta. Đặc biệt là chúng ta không khỏi bùi ngùi rơi lệ khi có dịp đi qua hoặc viếng thăm các khu nghĩa trang ở Vila, Santo, Malicolo, Epi v.v... Nếu tổng kết lại, trong công cuộc khai phá làm giầu cho Tân đảo thì cũng có hàng ngàn người xấu số đã phải gửi gắm nắm xương tàn nơi đất khách. So với tổng số phu mộ trên dưới 23 ngàn người có mặt ở Tân đảo thời bấy giờ thì tỷ lệ mất mát là quá lớn. Tính ra cứ 100 người thì có gần 5 người tử vong.

Người dịch sẽ cố gắng dùng từ ngữ  thật sát với từng thời điểm để giúp người đọc dễ hiểu hơn. Rất có thể có những sai sót nhầm lẫn nhất định trong khi dịch thuật. Vậy xin quý vị độc giả lượng thứ. Xin trân trọng cảm ơn.

Trích dịch nguyên bản Luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử :
« La Colonisation des Nouvelles Hébrides et les Indochinois »
(Cuộc xâm chiếm Tân đảo làm thuộc địa và những người dân đến từ xứ Đông dương).
Tác giả: Frederique TAILHADE
Dưới sự chỉ đạo của : Ông CARBONELL – 1987



aRose11.gif


PHẦN BA

Ông “Cai”.

Trong mỗi đồn điền thường có một hoặc hai ông “cai”. Tùy thuộc vào diện tích đất đai và số lượng lao động. Oai vệ và quyền lực tương đương một  đốc công do người cu-li tự bầu lên hoặc do điền chủ chỉ định. Người cai thường là người biết tiếng Tây hoặc tiếng đen để có thể truyền đạt mệnh lệnh của chủ.


Vợ chồng ông Cai và con cái tại đồn điên A-ốp Malicolo Tân đảo.

Người cai có ưu thế đặc quyền riêng: được ở trong ngôi nhà tiện nghi hơn cu-li, được quyền lựa chọn vợ đẹp trong số phụ nữ cu-li. Công việc chủ yếu của ông cai là giám sát nhân công và hiệu suất lao động trong đồn điền. Tóm lại là làm công việc của ông chủ thực thụ. Đôi khi, có những ông cai lạm dụng chức quyền đối xử với người làm tàn tệ hơn cả chủ. Có những ông cai không ngại ngần dùng roi gân bò để ra oai với người lao động.  Thực tế lương tháng của một ông cai là 100 francs, hơn người lao động có 20 quan. Nhưng được hưởng nhiều ưu đãi đặc biệt hơn người cu-li. Có nhà ở đầy đủ tiện nghi tối thiểu. Được cấp súng săn, ngựa cưỡi và nhiều thứ khác v.v…

Người phu mộ đang bóc vỏ dừa trong đồn điền ở Tân đảo.

Cho đến tận bây giờ, ở Vanuatu con cháu của người phu mộ chân đăng vẫn có ác cảm rõ rệt với con cái của các vị cai hồi xưa. Nguyên nhân sâu xa của nó chắc chắn chỉ có họ mới hiểu mà thôi.
Một vài tình tiết gây nên mâu thuẫn và hận thù giữa người cu-li và ông Cai rất phức tạp. Kỷ luật thực sự rất khó áp dụng,  đặc biệt đối với những người cu-li Bắc kì đầu tiên đến Tân đảo. Họ không phải là người phu mộ. Họ nguyên là những người tù khổ sai chung thân mắc tội trộm cắp giết người, tù chính trị đền từ Côn đảo (Poulo-Condore). Họ đã từng bị giam giữ tại Nouville Noumea. Một số biết nói tiếng Pháp. Một số đã được sử dụng làm ông Cai, làm thư kí riêng hoặc làm thông dịch viên cho ông chủ. Một số ông Cai đã quá mẫn cán với điền chủ đã trở thành kẻ thù của dân cu-li. Họ thỏa thuận ngầm với nhau là sẽ trả thù và hậu quá đáng tiếc là một số ông Cai đã bị thủ tiêu.
Bẩy người cu-li đã bị kết án tù giam và đã được hồi hương ngay sau khi mãn hạn tù. Theo dư luận thì họ được đối xử ở trong nhà tù tốt hơn khi làm việc ở đồn điền nhiều.

Công việc làm của người cu-li phu mộ.

Thời gian làm việc theo hợp đồng là 10 tiếng. có thể tăng lên tới 15 tiếng một ngày tùy theo mùa màng và thời tiết. Những ngày chủ nhật và ngày Lễ Tết cổ truyền, người cu-li phu mộ được nghỉ hưởng lương. Nhưng một số đảo hẻo lánh, người cu-li vẫn phải làm các công việc cho lợi ích chung như phát cỏ, làm vệ sinh chung quanh nơi nhà ở. Trong năm, duy nhất có ngày 14/7 cát tó giết dê (14 juillet) được coi là ngày lễ hội. Mọi người có thể đi lại tự do, thậm chí nhiều nơi còn tổ chức múa rồng và sư tử.
Nói chung, mỗi đồn điền có cách sử dụng người cu-li vào nhiều công việc khác nhau. Nhất là trong các đồn điền vừa và nhỏ.

 Người cu-li phu mộ dùng xe bò kéo để vận chuyển hàng hóa.

Phần lớn giấy tờ và tư liệu về các sự việc và sự kiện liên quan đến cuộc sống của người cu-li đã bị thiêu rụi trong biến cố trước ngày Tân đảo độc lập trở thành Vanuatu năm 1980. Cũng còn may mắn là có người đã lưu giữ được 3 quyển sổ kế toán trong đó có ghi chép về việc thanh toán lương theo từng công việc.

Người cu-li phu mộ nam nữ làm công việc nặng nhọc như nhau.

Căn cứ vào đó người ta mới biết được là tại đảo Santo, các điền chủ đã sử dụng cu-li làm nhiều công việc, trong đó có việc phá rừng  xây dựng đướng sá. Nhiều đồn điền ở xa thị trấn, điền chủ đã tận dụng cu-li sản xuất các loại đồ dân dụng bằng gỗ như tủ giường,  bàn ghế, nhà ở v.v… Một số nơi, chủ đã cho phép người làm tự khai phá đất đai chung quanh nhà để tăng gia sản xuất rau xanh. Họ vừa cung cấp cho chủ vừa cải thiện bữa ăn. Thậm chí, một số nơi đất trũng người ta đã trồng thử nghiệm lúa gạo nhằm giảm bớt khó khăn trong việc nhập khẩu gạo từ Đông dương. Nên nhớ là không có gạo, người culi tông-ki-noa sẵn sàng bỏ việc. Họ không thể ăn bánh mì và củ quả quanh năm như người bản xứ.


Tập trung đến nơi làm việc tại đồn điền PRNH Malicolo


Công việc chính yếu hàng ngày của người cu-li tông-ki-noa trong đồn điền: hái và thu gom dừa già. Bổ dừa và nậy cùi, sấy hoặc phơi khô. Thu hái ca-cao, cà phê, ngô, bông sợi. Chặt phá rừng hoang, trồng tỉa các loại cây khác như cam quýt, ớt xuất khẩu v.v… Tóm lại là đủ các loại công việc không lúc nào rảnh tay chân.

Trong một đồn điền nọ rộng khoảng 5.000 ha, người ta sử dụng 94 nhân công, trong đó có 43 người bản xứ và 51 người tông-ki-noa. Trên sổ sách, người ta ghi nhận được là năng suất lao động của người dân bắc-kì đạt gấp 4 lần dân bản địa. Trong lúc người cu-li chỉ nặng trên dưới 50 kg thì người da đen nặng trên dưới 100 kí. Người ta phát hiện ra rằng: không phải do người cu-li có sức khỏe dẻo dai mà chính là họ biết tổ chức phân chia công việc hợp lí và khoa học. Chính điều này đã được ông chủ khen ngợi, nhưng lại làm cho họ điêu đứng vì ông chủ đã đẩy mức khoán từ 250 kg lên tới 400 kg một ngày công (phải cần tới 3.500 quả dừa mới thu hoạch được 1 tấn dừa sấy khô).

 Người cu-li phu mộ vần chuyển dừa khô lên tầu

Trong những đồn điền lớn kiểu Công ty vô danh (sociétés anonymes) công việc thường ngày của công nhân cũng đa dạng. Vì các công ty đó xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình theo đường chính ngạch. Họ đã tậu được máy móc tân tiến hơn các đồn điền nhỏ. Và phần lớn trang thiết bị đó đều được mua tận gốc từ Pháp. Cộng với sự lanh lợi và bộ óc khá thông minh của người cu-li tông-ki-noa nên các thiết bị mấy móc được vận hành trôi chẩy đưa năng suất lao động lên cao vượt cả mong đợi. Một lực lượng quan trọng không thể thiếu trong việc phát triên chính sách thực dân trong khu vực. Lực lượng lao đông đa năng có thể thực hiện và hoàn thành tốt mọi công việc được giao.



Đốt cỏ và vỏ dừa khô xua đuổi ruồi muỗi trong trong đồn điền trồng dừa.

Trên thực tế, chính quyền địa phương đã phải lưu ý đến việc tuyển mộ những lao động có trình độ học vấn để làm việc trong văn phòng, làm phiên dịch, làm bồi bếp tại cơ quan chính quyền địa phương. Một số tư nhân đã phải tuyển mộ những thợ lành nghề như thư kí kế toán, thợ mộc, thợ xây, thợ sửa chữa máy nổ v.v…

Tình trạng sức khỏe và y tế

Tân đảo là một trong những khu vực nổi tiếng về dịch bệnh: bệnh sốt rét rừng, bệnh đường ruột và những bệnh nhiệt đới. Các thành viên trong gia đình điền chủ cũng như các cu-li tông-ki-noa đều không thoát được các dịch bệnh do muỗi a-nô-phen gây ra. Hầu như đồn điền nào cũng dành một khoảng đất để chôn cất những người chết vì dịch bệnh. Trong đó có phần mộ của các ông bà điền chủ và con cháu của họ. Ở gần đó, có cả những ngôi mộ của người cu-li tông-ki-noa.



Nhà điền chủ thường xây dựng ở khu đất giáp bãi biển

Trong lúc dân địa phương chọn chỗ ở nằm sâu trong rừng núi, thì đa số các điền chủ lại chọn những nơi thoáng đãng ở bờ biển. Nơi mà ruồi và muỗi a-nô-phen sản sinh nhiều vô kể. Ăn bữa cơm hoặc ngồi nói chuyện nhiều khi phải chui vào trong màn.
Người lao động tông-ki-noa thường dễ bị mắc bệnh nhiều do điều kiện và cường độ làm việc quá cực khổ, ăn uống và thuốc men thiếu thốn, nơi ở và sinh hoạt không đủ vệ sinh, giờ giấc làm việc kéo dài cộng thêm nhiệt độ ẩm ướt, đặc biệt trong các mùa mưa bão.

Đốc-tờ đang tiêm thuốc chống sốt rét vào mông người bệnh tại một bệnh xá ở đồn điền.

Những người cu-li làm việc trong các đồn điền nhỏ ở các đảo xa xôi hẻo lánh gặp nhiều khó khăn hơn những người làm việc trong các đồn điền tại các đảo lớn như San tô và Malicolo. Ở đồn điền lớn PRNH có các trạm y tế và y bác sĩ khám chữa bệnh.
Ở thị trấn Luganville đảo Santô    một bệnh viện. Ở Port Vila đảo Vate có 3 bệnh viện. (Hồi đó người ta thường gọi là nhà thương). Một dành riêng cho người Pháp, một dành riềng cho người Anh ở đảo Iririki và một dành cho người bản địa và người tông-ki-noa ngay phía dười nhà thương tây..
Các đảo hẻo lánh xa xôi không có bệnh viện. Những nới có Nhà thờ hoặc trung tâm giảng đạo thường có bệnh xá do các nhà truyền đạo trực tiếp khám, cấp thuốc chữa bệnh. Nhưng đường sá rất khó khăn, người bệnh đến được nới ấy nhiều khi không kịp.
Trong quyển sổ ghi chép số liệu tại một bệnh xá người ta ghi nhận được trong tổng số 94 cu-li làm trong đồn điền thì trung bình mỗi ngày có cả chục người đến khám bệnh. Tỷ lệ ốm chiếm khoảng gần 10%. Những người ốm thật cũng có nhưng số người giả vờ ốm cũng không thiếu.



Người phu mộ làm việc cặm cụi trong một đồn điên ở Tân đảo. Khu nhà ở của người lao động tông-ki-noa phía sau.

Cụ thể là ngày thứ tư 20/3/1940, một ông Cai đã làm báo cáo: “Các tên Thiet, Trong, Tri, Vien, Toan, Ri đến nhà thương. Nhưng bác sĩ đã trả về vì không tìm thấy bệnh”. (Tên đọc theo tiếng Pháp không có dấu)
Hoặc ngày thứ hai 10/2/1941. Tên Ly khai đau ở bẹn nhưng không chịu bang bó và đòi đi kiện chủ ở văn phòng đại diện chính quyền.
Hoặc ngày 25/9/1942, các tên: “Lang, Than, Trong, Bang đã được bác sĩ khám và cho nhập viện. Lúc nửa đêm nhân viên trực ca đã phát hiện là mấy tên này, thay vì đi ngủ lấy sức thì lại giở trò đánh bạc”.
Người cu-li làm việc vất vả muốn có ngày nghỉ đã nghĩ ra nhiều mánh khóe không tưởng tượng nổi.



Kiểm tra số lượng sản phẩm dừa trong ngày.

Người lao động thực sự mắc bệnh khá đông trong tất cả các đồn điền lớn hoặc nhỏ. Ngày 6/5/1939, người quản trị đồn điền PRNH ở Malicolo đã gửi báo cáo lên ông chủ tịch Công ty này như sau: “Tình trạng vệ sinh cực kì tồi tệ là nguyên nhân chính gây bệnh. Tỷ lệ người ốm chiếm 14% tổng số lao động. Ngoài ra mưa kéo dài và thời tiết không ổn định cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất. Một số cu-li bướng bỉnh và lười biếng cũng được ghi vào trong danh sách trả về quê hương sớm hơn dự kiến.

Nhà thương đen (hôpital indigène) ở Port Vila. Các bà mẹ VN sinh con ở Port Vila đều biết rất rõ nhà thương này.


Rồi báo cáo ngày 15/7/1939 ghi rõ: “Chúng tôi hoàn toàn thất vọng về tình trạng sức khỏe cu-li ngày càng tồi tệ. Đã thống kê được trên 260 ngày nghỉ việc do bị bệnh. Tính quân bình thì cứ môt cu-li có 56 ngày ốm nghỉ việc. Một ông Cai đánh trọng thương một cu-li đã bị phạt 1 năm tù giam. Tất cả những cái đó đã ảnh hương trực tiếp đến công việc sản xuất nói chung”. Thực tế, chúng ta không có đầy đủ số liệu về số lượng cu-li tử vong trong tất cả các đồn điền tại Tân đảo vì thiếu tư liệu. Một bà sơ già làm y tá tại nhà thương Port Vila đã tiết lộ: tuần lễ nào cũng có vài người tông-ki-noa bị bệnh nặng chết và nhà thương lúc nào cũng quá tải không đủ giường nằm.

Kỉ luật kiểu lãnh chúa và hình phạt trong đồn điền.
Khu thi hành kỉ luật A.D. (Atelier disciplinaire).

Hình phạt trong các đồn điền mỗi nơi một kiểu. Nhưng nói chung không tránh khỏi các cú đấm đá, roi gân bò, phạt tiền, khấu trừ lương và suất ăn hàng ngày, cắt giảm ngày lễ tết, nhốt xuống hầm ngầm dưới đất hoặc biệt giam vào khu kỉ luật lao động khổ sai. Đặc biệt trên các đảo xa xôi hẻo lánh.
Từ chỗ cực khổ, cuộc sống của người cu-li đã trở thành địa ngục trần gian tùy theo tình hình và cá tính của điên chủ. Một số điền chủ đã cắt khoản nghỉ dưỡng của người lao động nữ mang thai hoặc sinh đẻ. Nếu một số điền chủ hơi quá tay khi dùng bạo lực, thì việc áp dụng kỉ luật rừng trong các đồn điền lại gần giống nhau.

Cái roi gân bò (cặc bò) các điền chủ và cai kí sử dụng để đánh người phu mộ tông-ki-noa.

Ngày 20/1/1940, ông Cai nọ đã ghi trong cuốn sổ của mình như sau: “Tên Hon đã uống trộm nước dừa và dấu dưới gốc chanh, Bị bắt quả tang và nhốt vào khu kỉ luật cải tạo A.D.  
Ngày 22/3/1941: “Tên Que và Thi Thoa đã chửi đốc công vì đã báo cáo với chủ về công việc làm không tốt của họ và hai người này đã bị nhốt vào khu A.D.”
Ngày 4/4/1941: “Hai tên Thi Thoa và Que đã được thả khỏi khu vực A.D. Họ buộc phải xin phép chủ để được nghỉ việc không lương nửa ngày để tắm rửa và làm vệ sinh thân thể”.
Ngày 25/8/1941: “ Tên Que đã cố ý nhổ một gốc cây ca-cao mới lớn để trả thù chủ. Hắn đã chịu nộp phạt số tiên 25 francs thay cho việc bị nhốt vào khu A.D.”



Người phu mộ đang chặt bổ dừa

Một kỉ luật khắt khe khác: Một ngày nghỉ việc không rõ lí do hoặc bị nhốt vào khu A.D. sẽ bị khấu trừ hai ngày lương. Một số cu-li nghiện ngập, cờ bạc thường đi ăn trộm gà để bán lấy tiền tiêu xài. Điền chủ bán cho người tông-ki-noa 40 quan (franc) một con gà, nhưng bán cho người bản xứ chỉ với giá 20 quan.
Người quản trị ở đồn điền PRNH đã ghi vào cuốn sổ tay:
“Ngày 11/7/1939, 14 cu-li đã bỏ trốn lên văn phòng đại diện chính quyền để tố cáo điền chủ đã không trả công và thời gian nghỉ bù xứng đáng cho việc bốc hàng vượt thời gian lên tầu ngày 9/7/1939. Không những thế còn bị đánh đập và đối xử tồi tệ. Hậu quả là chẳng những không thắng kiện mà cả 14 người còn bị phạt 8 ngày ngồi tù. Chỉ vì tội dám bỏ trốn lên chính quyền tố cáo chông đối chủ. Ngày 5/8 sau đó chính quyền tuyên phạt:
1.   Đương nhiên là mất quyền hưởng lương trong những ngày bỏ trốn.
2.   Phạt mỗi người 27 quan về tội vi phạm kỉ luật lao động (Điền chủ đòi 80 quan).
3.   Trả tiền ăn 4 quan một người một ngày.
4.   Trả tiền cho chính quyền 4 quan mối người một ngày về việc bị giam giữ trong khu kỉ luật A.D.
5.   Truất quyền hưởng lợi trong việc tăng năng suất dừa khô.

Tất cả những biên pháp liên tục thi hành kỉ luật trong các đồn điền đã dấy lên sự phẫn nộ gây tình hình hết sức căng thẳng. Tờ báo Le Néo Hebridais viết như sau :



Cỗ máy chém và đao phủ

« Máy chém dưới bóng dừa »
« Tội phạm là những người tông-ki-noa. Họ đã tổ chức giết người chủ tên Xơ-va-liê và họ đã phải đền tội trước pháp luật. Con giun xéo lắm cũng quằn. Con người bị áp bức đến cùng cực sẽ phải trỗi dậy. Đó là quy luật  phản kháng tự nhiên. Nhưng cái chết của họ cũng sẽ là sự cảnh tỉnh cho chung ta (những điền chủ).



Bia mộ tưởng niệm những người đã hy sinh vì Tự do và Công lý ở Port Vila Tân đảo.

Lần đầu tiên trong lịch sử Tân đảo một cỗ máy chém được dựng lên ở đây. Theo một số thông tin tư liệu của kho lưu trữ hồ sơ tại Noumea thì cỗ máy chém này đã có cái vinh dự chém rơi đầu Vua Louis thứ XVI. Và cả cái đầu của thủ lĩnh cách mạng tư sản Pháp Rô-bết-pie (Robespierre) nữa.


Linh mục Pierre Loubiere


27/7/1931. Lính Tây áp giải 6 người tử tù tông-ki-noa từ Noumea về Port Vila trên con tầu La Bê-rui (La Perouse).

Hôm nay cỗ máy đã vượt hơn 2 vạn cây số từ Paris đến Port Vila. Và 6 cái đàu của tử tù đã lần lượt rơi rụng dưới bóng cây dừa. Mỗi cái đầu trước khi lìa khỏi xác đã được linh mục Pierre Loubiere đưa cây thánh giá mầu đen vào môi tử tù và đọc câu kinh xám hối. Linh mục đã hết sức cần mẫn dẫn giắt tử tù từ nơi giam giữ đến chỗ máy chém. Và cuối cùng 6 cái đầu đã lìa khỏi thân xác. Và linh mục đã đọc đoạn kinh xá tội và xác nhận là vong linh của các tử tù đã được ân xá. Đồng thời cũng đã xác nhận là người đao phủ đã hoàn tất nhiệm vụ của mình».



28/7/1931. Cuộc hành hình 6 tử tù tông-ki-noa đã được tổ chức tại trại lính bảo an Tây ngay chỗ bãi trống thấp thoáng mấy bóng dừa phía tay phải. Khu nhà mầu trắng phía tay phải là nhà thương Tây.

Như vậy là ngày 28 tháng bẩy năm 1931 đã ghi đậm dấu ấn của một cuộc thảm sát đẫm máu : 6 cái đầu đã rơi. Trong đó có 4 người tử tù liên quan trực tiếp đến việc hạ sát ông chủ Xơ-va-liê. Hai tử tù khác đã can tội giết hại người đồng hương của họ. Một số đại diện của người tông-ki-noa tại đảo Va-tê đã buộc phải có mặt để chứng kiến vụ hành hình này. Toàn bộ các cu-li tại các đồn điền đã đeo khăn tang. Một mối thù không đội trời chung đã nẩy sinh trong khối cộng đồng người tông-ki-noa. Nhưng cũng là một sự cảnh tỉnh cho các điền chủ ở Tân đảo.

Xin mời quý vị theo dõi tiếp phần 4 trong kì tới.


aRose11.gif

Người dịch xin trân trọng kính chào và cảm ơn quý vị đã dành thời gian để ghé thăm Blog Tân đảo Xưa và Nay. Và đã đặc biệt quan tâm đến lịch sử về cuộc sống tha phương của người phu mộ Việt Nam tại Tân đảo thế kỉ 20.

Xin chúc mọi người vui khỏe và may mắn.



chao tam biet.gif