Powered By Blogger

Wednesday, October 3, 2018

Biên niên sử về lịch sử tha phương của người phu mộ VN tại Tân đảo - Phần 1


BIÊN NIÊN SỬ VỀ CUỘC SỐNG THA PHƯƠNG 
CỦA NGƯỜI PHU MỘ CHÂN ĐĂNG VIỆT NAM 
Từ Thế kỉ 20 ở Tân đảo - Tân Thế giới.
ANNALES CHRONOLOGIQUES EN IMAGES RELATANT 
L'HISTOIRE DE LA DIASPORA des TRAVAILLEURS VIETNAMIENS ENGAGÉS SOUS-CONTRAT
du 20ème Siècle aux Nouvelles Hébrides et en Nouvelle- Calédonie.
aRose11.gif

Chân dung người Phu mộ Việt Nam tại Tân đảo.

Jean Vanson sưu tầm và lên trang Blog
Recherche et mis en page par l’auteur


Lời nói đầu

Mục đích của việc tập hợp tóm tắt một số sự kiện bằng hình ảnh nhằm nêu lên quá trình tiến triển của người  phu mộ Việt Nam trong lịch sử  tha phương nơi xứ người. Xuất thân từ người lao động và nông dân nghèo khổ, chân lấm tay bùn xa rời quê hương đến làm việc ở Tân Thế giới - Tân đảo đầu thế ki 20. Và kết thúc bằng công cuộc đấu tranh lịch sử đòi quyền sống tự do binh đẳng và công cuộc hồi hương chính đáng về Quê cha đất tổ. 
Đồng thời nói lên sự lựa chọn của các thế hệ con cháu của những người phu mộ đã và đang còn cư trú nơi đây.Nơi chôn rau cắt rốn của họ...

Ce bref reportage en images a pour but de récapituler les évènements qui font partie de l’histoire de la « diaspora » des anciens travailleurs engagés vietnamiens sous-contrat dits tonkinois aux Nouvelles Hebrides et de la Nouvelle Caledonie au 20ème siècle. Et le rude combat historique réclamant leurs droits de liberté corporelle et civique. Et finalement par le droit de l’obtention du légitime rapatriement dans leur pays natal. 
Également, relatant le choix et la décision de leurs progénitures: les futures générations des anciens travailleurs engagés qui ont décidé de s'y implanter au pays d'où ils sont nés et grandis.

\aRose11.gif

 1920. Từ Thành phố cảng Hải phòng người lao động VN đã đăng kí 
hợp đồng 5 năm đi làm  phu mộ ở Tân đảo - Tân Thế giới.
De Hai phong, les travailleurs Tonkinois ont signé leur contrat de travail
de 5 ans pour les Nouvelles Hebrides et la Nouvelle Caledonie.

1930. Cảng Hải phòng thời Tây (Port de Haiphong du temps colonial)

aRose11.gif

 LA MAIN-D’ŒUVRE TONKINOISE EN MELANESIE.
(La Main-d'œuvre pénale annamite en NOUVELLE-CALÉDONIE)

(Extrait sur Le Journal des débats, 8 septembre 1890)


[…] Il ne faut pas se dissimuler que l'une des difficultés sérieuses de ces entreprises, c'est la rareté de la main-d'œuvre, et, à ce point de vue spécial, le concours de l'administration coloniale peut permettre de vaincre bien des obstacles. Un premier pas vient d'être fait dans cette voie par suite de l'introduction en Nouvelle-Calédonie d'un certain nombre de condamnés annamites que M. de Greslan d'une part, et, d'autre part, la Société du nickel ont été autorisés à faire venir d'Indo-Chine. Il y a, de ce chef, un premier contingent d'environ 1.000 travailleurs qui pourront être suivis de plusieurs autres, si l'épreuve est jugée satisfaisante. On pourrait ainsi suppléer à l'insuffisance des condamnés et des relégués de la Nouvelle-Calédonie qui ne sont même pas en nombre voulu pour faire face aux travaux publics. Quant aux condamnés arabes, ils sont plutôt une gêne qu'une aide. L'impossibilité de les astreindre au travail, la surveillance constante qu'il faut exercer et qui n'empêche pas de continuelles évasions, font que les compagnies privées refusent de les accepter sur leurs chantiers. […]

(Theo báo Nghị luận, đăng ngày 8/9/1890) Đại ý có thể hiểu như thế này:
Về việc sử dụng lực lượng nhân công là tội phạm (Main d’oeuvre pénale) người Việt Bắc kì và Trung kì tại Nouvelle Calédonie.
... Người ta chẳng cần che giấu làm gì về những khó khăn chồng chất tại các xí nghiệp sở mỏ lúc này, đó là sự khan hiếm nhân công trầm trọng, và theo cách nhìn nhận đặc biệt đó, một biện pháp hữu hiệu của bộ máy hành chính thuộc địa có thể lựa chọn sẽ là giải pháp vượt qua được thử thách lớn này. Bước đầu là việc tổ chức di chuyên một số tội phạm người Việt thông qua thỏa thuận giữa ông Greslan và Công ty Nickel cho phép nhập cư chuyến tầu đầu tiên với khoảng 1.000 người đáp ứng với tình thế khó khăn lúc bấy giờ. Sau đó, nếu thuận buồm xuôi gió, có thể sẽ tổ chức thường xuyên nhiều chuyến khác. Số tù nhân này sẽ bổ sung cho lực lượng nhân công ở đây. Vì số phạm nhân sẵn có của địa phương không đảm đương nổi công việc chung của thành phố. Còn những tù nhân người Ả-rập, họ chỉ là vật cản chứ chẳng giúp đỡ được gì. Đối với những phạm nhân này, không những phải tăng thêm người canh gác ngăn chặn việc họ chạy trôn mà năng suất lao động và ý thức của họ quá ư thấp kém. Bởi vậy, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã từ chối không thể tiếp tục nhận họ làm việc tại các công trường tại Calédonie... 


1891. Con tàu Xê-ri-bông (Cheribon) chở 800  người Việt nam đầu tiên từ Côn đảo (Poulo Condor) đến Noumea Tân Caledonie. 

1891. Le paquebot Cheribon a fait le trajet de Poulo Condor à Noumea Nouvelle Caledonie. Transportant à son bord 800  passagers vietnamiens.


(Dépêches télégraphiques des correspondants particuliers du Temps(Le Temps, 3 mai 1891)Marseille, 2 mai. .....................
Parmi les soldats rapatriés par le Yarra [des Messageries maritimes] se trouvaient un sergent et quatorze hommes de l'infanterie de marine ayant escorté à bord du Chéribon[de la Cie nationale de navigation (Borelli)] les 800 condamnés annamites envoyés de Poulo-Condor à Nouméa. Ces derniers ont été bien accueillis en Calédonie et placés sans retard chez divers industriels ou entrepreneurs).





Người công nhân phu mộ Việt nam đầu tiên đến làm việc tại các min mỏ và nhà máy Nickel tại Tân Thế giới New Caledonia.
Les premiers déportés et travailleurs vietnamiens engagés sous-contrat
travaillant dans les mines et usine nickel à Noumea NC.


1891. Sự hiện diện của 800 người Việt nam đầu tiên tại Noumea Tân Caledonia trên vùng Nam Thái bình dương với  nhiều thông tin khác nhau : 


1. Tờ báo (L’Écho des mines et de la métallurgie, 29 mars 1891) viết : Công ty Nickel, 13 phố La Fayette đã gặp nhiều khó khăn khi bị tràn ngập bởi những đơn đặt hàng mua bán kền, một chất kim loại quý hiếm đang nằm trong lòng đất, không thể khai thác được vì thiếu hụt nhân công.
Bởi vậy Công ty này quyết định tuyển mộ 800 dân an nam (annamites) Trung kì và dân tông-ki-noa Bắc kì (tonkinois) đến Noumea. Số lao động này nổi tiếng về sức bền bỉ trong việc đào núi và đắp đất (Terrassiers). Công ty Nickel đã tổ chức thử tay nghề giữa cu-li an-nam và dân gốc Bắc Phi đến từ Ma-rốc và  Kabyles. Rõ ràng người an-nam chiếm ưu thế. Ông chủ Nickel rất hài lòng về quyết định của mình khi tuyển dụng người tông-ki-noa và an-na-mít.

 Les Annamites en Nouvelle-Calédonie (L’Écho des mines et de la métallurgie, 29 mars 1891)La société du Nickel, 13, rue de La-Fayette, se voyant débordée par les commandes, et dans l'impossibilité d'exploiter le minerai nécessaire à cause de la pénurie de main-d'œuvre en Nouvelle-Calédonie, vient de faire transporter 800 Annamites à Nouméa. Ces ouvriers sont renommés pour leurs qualités de résistance comme terrassiers. Nous dirons si cet essai réussira. La Cie du Nickel fera bien aussi d'essayer des Marocains et de certains Kabyles: nous avons pu les voir à l'œuvre, et la Cie de Mokta en est enchantée.


2. Trên trang báo Thời gian (Le Temps) ngày 2/5/1891 đăng tải tin tức gửi qua bức điện giây thép (TSF) như sau : Trong số lính Pháp được hồi hương trên chuyến tầu Yarra của hãng tầu vận tải đường biển M.M. (Messageries Maritimes), có một thiếu úy và 14 người lính được chuyển sang tầu Cheribon, họ dược giao nhiệm vụ áp giải 800 tù nhân người tông-ki-noa và an-na-mít từ Côn đảo (Poulo Condor) về Noumea ngày 14/3/1891. Toàn bộ số người này đã được đón tiếp chu đáo tại Noumea và sau đó được điều động về làm việc tại các sở mỏ và các cơ sở sản xuất khác.

3. Cũng tờ báo Thời gian (Le temps) đăng ngày 12/5/1891 như sau :
Tầu Cheribon đã chuyên chở 800 người dân nhập cư (immigrants) bao gồm người tông-ki-noa và an-na-mít. Tầu đã cập bến Noumea an toàn ngày 14/3/1891. Sức khỏe của hành khách tương đối tốt và ổn định. Chỉ có 4 người bị chết trên chuyến đi không rõ nguyên nhân. Toàn bộ số người này đã được chuyển về cách ly y tế trên đảo Freycinet. Sau đó được phân bổ đến các min mỏ và nhà máy Nickel.

 AFFAIRES COLONIALES Nouvelle-Calédonie(Le Temps, 12 mai 1891)Le Chéribon, porteur d'un convoi de huit cents immigrants annamites et tonkinois, est arrivé à Nouméa le 14 mars. Le voyage s'est opéré dans d'excellentes conditions de temps et de mer, sauf pendant quatre jours (du 6 au 10 mars), où le navire a subi un coup de vent violent à quelque distance des côtes de Calédonie. L'ordre et la tranquillité n'ont pas été troublés au cours du voyage. Enfin, l'état sanitaire a été aussi bon qu'il pouvait l'être, et il ne s'est pas produit parmi les Annamites un seul cas de cette nostalgie si redoutable chez les peuples d'Orient et qui les pousse à toutes les extrémités. Il n'est survenu à bord que quatre décès, et tous dus à une cause antérieure à l'embarquement. Les immigrants ont été placés provisoirement au lazaret de l'îlot Freycinet.

Báo “Le Temps” ngày 12/5/1891 đăng tải bài viết về Vấn đề Thuộc địa tại NC
800 người Bắc và Trung kì nhập cư trên chuyến tầu Cheribon đã cập bên Noumea ngày 14/3/1891. Chuyến vượt đại dương của con tầu đã diễn ra trót lọt trong điều kiện vô cùng tốt đẹp, trừ những ngày 6 và 10 con tầu đã phải đương đầu với sóng to gió lớn khi gần tới hải phận của Tân Caledonie. Trật tự và sự yên tĩnh trên tầu không bị xáo trộn. Điều kiện vệ sinh đã được bảo đảm ở mức độ tối đa. Đặc biệt là tinh thần của hành khách trên tầu đã được duy trì và bảo đảm trong điều kiện lần đầu xa rời quê hương của mình. Tuy vậy cũng có 4 ca tử vong do mắc bệnh trước lúc lên tầu. Những người nhập cư đã được đưa về khu cách ly y tê tại đảo Freycinet.



aRose11.gif

Cờ hiệu của Pháp và Anh thuộc chính quyền Condominium
tại Tân đảo (New Hebrides)

1906. Chính phủ Pháp và Vương quốc Anh kí kết hiệp định thành lập Chế độ đồng quản gọi là Công-đo-mi-nhôm (Condominium). Thay thế cho Hội đồng quân sự Hàng hải giữa hai nước đã tồn tại từ năm 1874.


Tòa án hỗn hợp của chính quyền Condominium

1911-1919. Sự hiện diện của người Việt Nam đầu tiên ở Tân đảo qua tư liệu thông tin lịch sử.

Năm 1900-1910. Sự hiện diện của người Việt nam đầu tiên ở Tân đảo (New Hebrides-Vanuatu) vào quãng năm 1900-1910. Họ là ai?  Chắc chắn họ không phải là dân đi phu mộ mà chính là những người làm chính trị chống lại chính quyền bảo hộ và vua quan phong kiến ở Việt nam. Họ bị bắt tù giam ở Côn đảo (Poulo Condor) và lưu đầy cấm cố sang Tân Thế giới (New Caledonia)  từ những năm 1891. Rồi sau đó một số được thuyên chuyển sang cấm cố ở Tân đảo.

Năm 1911.  Bằng chứng là Toà án thường phạm ở Port Vila đã xử ông Nguyen Van Hoi  (bản tiếng Pháp không có dấu) về tội danh bán rượu lậu cho dân bản xứ.
Toà án tuyên phạt như sau:

...“Căn cứ vào biên bản ghi ngày 1/9/1913, Nguyen Van Hoi đã khai nhận buổi sáng 14/8/1913, có bán nửa lít rượu Rhum cho tên Sam hay Frond người Santo (Tân đảo), sinh sống tại Port Vila với số tiền là 2 si-linh tiền Anh (tương đương 2 franc 50 xăng-tim tiền Pháp).

Căn cứ vào biên bản của ông Chánh cẩm và lời khai của thủ phạm ngày 21/04/1911 về sự việc xẩy ra tương tự, sẽ thi hành án theo luật định đối với can phạm. Do đó Toà tuyên phạt Nguyen Van Hoi 50 franc và 3 ngày tù giam cộng với tất cả chi phí liên quan.

Bản án mang số hiệu  219 ngày 9/09/1913.

Tòa án hỗn hợp ở Port Vila Tân đảo
Tribunal mixte du Condominium à Port Vila Nouvelles Hebrides.


1911-1919. La présence des premiers Vietnamiens aux Nouvelles-Hebrides selon les sources médiatiques. Ce sont les bagnards tonkinois et annamites déportés de Poulo Condor et exilés à Noumea Nouvelle-Caledonie en 1891. Certains d'entre eux furent transférés aux Nouvelles Hebrides travaillant comme coolies dans les plantations. 

Preuves suivies d’une audience correctionnelle du 9/9/1911.
"Attendu que par exploit daté du premier septembre 1913 N’Guyen Van Hoi a été cité à l’accusation d’avoir vendu de bon matin, le quatorze août 1913 à un indigène de Santo (Nouvelles-Hébrides) nommé Sam ou Frond, demeurant à Port-Vila, un demi litre de rhum pour la somme de deux shillings ;
Attendu que un procès Verbal du Commandant de milice française en date du quinze août 1913, et de 1'aveu du contrevenant, il résulte que le quatorze août 1913, à Port-Vila (Nouvelles Hébrides) le nommé N'Guyen Van Hoi a vendu à l’indigène Sam ou Frond de Santo. (Nouvelles Hébrides) une demi bouteille de rhum, pour la somme de deux francs et cinquante centimes;"
…"Attendu que le Contrevenant est en état de récidive légale pour avoir été condamné le vingt et un avril 1911 pour la même contravention ; qu’il y a lieu d’en tenir compte dans l’application de la peine ; Par ces motifs : Condamne N’Guyen Van Hoi à cinquante francs d’amende, à trois jours de prison et en tous frais et depends.
."Affaire No219 Audience correctionnelle du 9 septembre 1913.

Một số vụ án liên quan đến người Việt Nam  từ năm 1913 đến 1917:

Autres faits et motifs sur la vente de l'alcool aux indigènes:


…"Attendu que par un exploit date du vingt quatre septembre mil neuf cent treize, N' Guyen. Van Thing a été cite a comparaitre devant ce Tribunal pour répondre a 1'accusation d'avoir
Vendu le lundi vingt deux septembre mil neuf cent treize, a environ dix heures et demie du matin dans une salle de débit nommée "Bar du Condominium", a Port-Vila, ile de Vaté, Nouvelles Hébrides, aux indigènes : Daniel Tenene de Maré, iles Loyautés, Nouvelle Calédonie, Toten et Kalman d'Erakor, ile Vaté,
trois verres d'absinthe, pour un poisson, ce qui constitue une infraction a 1'article 59 de la Convention du 20 octobre 1906 et a l'arrêté conjoint du 14 janvier 1911;"
"Attendu que de l'aveu même du contrevenant et des débats il résulte que N'Guyen Van Thing dit Bah, a le vingt deux septembre mil neuf cent treize, à Port-Vila (Nouvelles-Hébrides ) vendu de l'absinthe aux indigènes Daniel, Toten et Kalman;"
….
"Par ces motifs :
Le Tribunal condamne N’Guyen Van Thing dit Bah a 25 (vingt cinq) francs d’amende et en tous frais et dépens."
Affaire No 224
Audience correctionnelle du trois octobre 1913

"Attendu que par un exploit en date du vingt six septembre mil neuf cent treize, Phan Van Bir a été cité à comparaitre devant ce Tribunal pour répondre à l’accusation d’avoir vendu, le samedi vingt septembre mil neuf cent treize, vers midi, dans sa maison, située près de celle de Monsieur Lepeltier à Port-Vila, à l’indigène Louis d’Aoba, Nouvelles-Hébrides, deux verres de vin pour la somme de dix pence (environ un franc) ce qui constitue une infraction à l’article 59 de la Convention du 20 octobre 1906,
Attendu que de l’aveu même du contrevenant et des débats il résulte que Phan Van Bir a le vingt septembre mil neuf cent treize, à Port-Vila, (Nouvelles-Hébrides) vendu deux verres de vin à l’indigène Louis d’Aoba (Nouvelles-Hébrides) ;" …
"Par ces motifs :
Le Tribunal condamne Phan Van Bir à vingt cinq francs d’amende et en tous frais et dépens."
Affaire No 226
Audience correctionnelle du 7 octobre 1913.

"Attendu que d'un procès-verbal dressé, à la date du 21 Juillet 1916, par M. Boibelet, gendarme, adjoint au Commandant de la Section française de la Milice, des débats et aussi des aveux du contrevenant, il résulte la preuve que celui-ci, Ha Van Gioi, a, le 14 Juillet 1916, en son habitation sise près du Lagon, île Vaté, vendu des boissons alcooliques aux indigènes Poui, de Santo et Tommy, d'Aoba;"
"Par ces motifs,
Déclare HA VAN GIOI atteint et convaincu de l'infraction c--dessus spécifiée;
Et lui faisant application des textes dont lecture a été donnée à l'audience,

Le condamne à quinze jours d'emprisonnement et à cinquante francs d'amende et aux frais."
AFFAIRE No. 299
AUDIENCE DE SIMPLE POLICE DU MARDI 1er AOUT 1916

Attendu que d'un procès-verbal dressé le 31 Août dernier par M. DELIGNY, Commissaire de police français, et aussi des aveux du prévenu, il résulte la preuve que ce dernier a, le 11 Août 1917, vendu des boissons alcooliques et notamment du rhum aux indigènes BANKOR et LENKOU d'Ambrym, engagés de la P.I.I.C à Mélé,"
….
"PAR CES MOTIFS:
Déclare le prévenu N'GUYEN VAN DAO atteint et convaincu de l'infraction ci-dessus spécifiée,

Et lui faisant application des articles 59 et 61 dont lecture a été donné à l'audience,

Le condamne à quinze jours de prison et a une amende de cinquante francs et aux frais."

AFFAIRE 355
AUDIENCE DE SIMPLE POLICE DU VENDREDI 14 SEPTEMBRE 1917



Vụ việc số 224 tại phiên tòa thường phạm ngày 03/10/1913.

… « Căn cứ vào sự việc xẩy ra ngayf24/9/1913, tên Nguyen van Thing (Thinh) tức Ba phải hầu tòa để đối chất với vụ đổi chác 3 ly rượu mạnh áp-xanh để lấy 1 con cá tại quán rượu Công-đo-mi-nhôm cho người da đen tên Daniel Tenere người gốc Ma-rê Tân Caledonie. Hành động này vi phạm điều luật 59 của bản Quy ước ngày 20/10/1906 và nghị định kí ngày 14/11/1911.
Tội đổi chác cũng tương đương với việc bán, nên Tòa án quyết định tuyên phạt Nguyen van Thing tức Ba 25 francs và các khoản án phí khác .


Vụ việc số 226 tại phiên tòa thường phạm ngày 017/10/1913 : Nghi phạm Phan van Bi đã bị kết án về tội danh bán hai cốc rượu mạnh với số tiền 10 xu tương đương vời 1 franc cho tên Louis người dân Aoba ngay tại nhà trên khu vực của ông Lepelletier ở Port Vila. Vi phạm điều 59 nghị định 20/10/1906. Tòa án tuyên phạt Phan van Bi 25 francs cộng các chi phí khác tại tòa án.

Vụ viêc số 299 ngày 1/8/1916 tại Sở Cẩm :

Căn cứ vào biên bản ngày 21/7/1916 của ngài phó chánh cẩm Boibelet, chỉ huy phân khu lính Bảo an Pháp tại Port Vila, đã bắt quả tang tên Ha van Gioi, ngày 14/7/1916 bán nhiều chai rượu mạnh cho các tên Poui gốc Santo và tên Toommy gốc Aoba sinh sống trong khu vực La-gồng đảo Vate. Tuyên phạt Ha van Gioi 15 ngày tù giam và nộp 50 francs tiền phạt và các chi phí khác.

Vụ việc số 355 ngày 14/9/1917 :

Căn cứ vào biên bản lập ngày 31/8/1917 của ngài chánh cẩm Pháp  Deligny và lời thú tội của can phạm cũng như tang chứng và hiện vật thu được, tên Nguyen van Dao đã khai nhận bán rượu vang và đặc biệt là rươu Rhum cho hai tên Bankor và Lenkou dân gốc đảo Ambrym đang cư trú tại làng Mê lê. Đã vi phạm điều luật 59 và 60, tuyên phạt Nguyen van Dao 15 ngày tù giam và 50 francs tiền phạt cộng các khoản phí khác.


 10/8/1920. 145 người phu mộ Bắc kì đầu tiên đến Port Vila Tân đảo theo diện hợp đồng lao động chính thức

Telles sont les conjonctures dans lesquelles fut constitué le premier contingent de travailleurs indochinois, dit du «Roberto Figuras» à l'effectif de 960 engagés, recrutés par les Établissements Ballande, dont 813 pour la Nouvelle-Calédonie et 147 pour les Nouvelles-Hébrides. C'était, en ce qui concerne l'archipel, un essai. Un autre essai fut fait en avril 1923 par M.Lançon pour un contingent de 57. Les résultats de l'un et l'autre furent satisfaisants.


 
 Bản hợp đồng của công nhân phu mộ Bắc kì  đến làm việc tại đồn điên Lăng-xông tại đảo Ê-pi tại Tân đảo.
Les travailleurs tonkinois engagés sous contrat aux plantations de Mr Lançon sur l'ile d'Epi Nouvelles Hebrides.




TABLEAU. - Rythme d’arrivée des travailleurs vietnamiens, 1921-1940 :
Années :     1921  1922  1923   1924  1925  1926  1927   1928   1929  1930   1931    1938  1937   1939        Total
Arrivées :    145   102     437   1156  1623   2888  4293   4862   5315  5413   3372    2040  1630   2103      35379


1921. Tầu "Roberto Figueras" chở 813 người đến Noumea. Sau đó chuyên chở tiếp từ Noumea về Port Vila 145 người trong đó có 20 là phụ nữ. Trước đó, năm 1920 ông Chủ đồn điền Lăng-xông (Lançon) đã trực tiếp về Việt nam tuyển mộ 57 người lao động cho chính đồn điền của mình ở đảo Ê-pi (Báo Eveil economique de l’Indochine).


aRose11.gif


La main-d'œuvre légale tonkinoise en Calédonie et aux Nouvelles Hébrides H. C. [Henri Cucherousset].  (L’Éveil économique de l’Indochine, 28 octobre 1923)

Les premiers cinq cent cinquante paysans tonkinois recrutés sous-contrat cet été par M.   Milliard, de la maison Ballande, majorité pour la Nouvelle-Calédonie et le restant pour les Nouvelles-Hébrides sont arrivés le 25 août à Nouméa après une excellente traversée. L'état sanitaire fut parfait grâce à la vigilance de M. le docteur Lefèvre, médecin du Saint-François-Xavier, qui, parlant très bien l'annamite, sut maintenir le moral aussi bien que le physique. Un seul décès, une femme, qui mourut de la fièvre après quatre jours de traversée. C'est un record pour un navire d'émigrants qui resta 24 jours en mer. Les Annamites (dont 416 avaient leurs femmes avec eux) furent répartis par petits groupes chez les divers colons français, à peu de distance les uns des autres, et les familles catholiques à proximité des missions catholiques. Chacun reçut un bon lopin de terre, de cette terre d'une prodigieuse fertilité où fruits et légumes poussent presque sans culture. Le système de la semaine anglaise leur laisse le samedi soir et le dimanche pour s'occuper de leur propre champ. Tous ces braves gens paraissaient satisfaits et sans doute le Saint-François-Xavier, qui doit partir dans quelques jours de Nouméa pour arriver fin novembre à Haïphong, apportera-t-il aux familles de ces expatriés une abondante correspondance...

Báo Kinh tế Đông dương Bừng tỉnh ngày 28/10/1923 đăng tải bài viết về “Lực lượng nhân công hợp pháp người Bắc kì tại Nouvelle Caledonie và Nouvelles Hebrides”.

Sau chuyến vượt biển dài ngày vô cùng tốt đẹp, 550 người nông dân Bắc kì đầu tiên được tuyển mộ theo hợp đông lao động chính thức thông qua ông Milliard đại diện của Công ty Ballande đã tời Noumea ngày 25/8 năm 1923 trên con tầu Saint Francois Xavier. Số lớn ở lại Caledonie. Số còn lại dành cho Nouvelles Hebrides. Nhờ có sự chăm sóc tận tâm của Ngài Lefèvre, một bác sĩ nói thông thạo tiếng Việt đã đảm bảo tình hình sức khỏe của mọi người. Sau 24 ngày đêm lênh đênh trên biển, con tầu  cập bến an toàn đã được công nhận là một kỉ lục lúc bấy giờ. 416 người và gia đình của họ đã được nhanh chóng phân chia thành nhóm và chuyển về làm việc tại các cơ sở sản xuất. Những người theo đạo thiên chúa được ưu tiên nhận phần đất nhỏ trong khu vực xứ đạo để trồng rau và cây quả. Đất ở đây mầu mỡ không cần bón phân cũng xanh tười mơn mởn. Theo luật lao động của người Anh, số người này được phép nghỉ việc chiều thứ bẩy và ngày chủ nhật. Người nào cũng tỏ vẻ hài lòng với cuộc sống mới ở đây. Và điều chắc chắn là con tầu Saitn Francois Xavier này sẽ là con thoi đưa tin tức nóng hổi giữa hai bờ đại dương.

1923. Ngày 25/8. Tầu Saint Francois Xavier chở 500 người phu mộ Bắc kì đã cập bến Noumea an toàn. Có một phụ nữ bị tử vong do bị sốt nặng không chịu đựng nổi sóng to. Thân xác đã được bỏ vào bao tải và quăng xuống biển khơi. Tuy vậy ban chỉ huy tầu vẫn ghi  nhận đây là một thành công của chuyến đi dài ngày trên biển cả đại dương (24 ngày đêm). (Báo Eveil economique de l’Indochine)




1920-1923. Người công nhân phu mộ Tông-ki-noa đầu tiên đến Tân đảo theo hợp đồng lao động chính thức.
La présence officielle des premiers travailleurs tonkinois engagés  sous-contrat aux Nouvelles-Hebrides


1920. Hôpital indigène à Port Vila Nouvelles Hebrides. Construit dans les années 1920.
Nhà thương của người bản địa. Nơi đây cũng dành cho các bệnh nhân người phu mộ VN. Được xây dựng quãng năm 1920.


1924. Nguyễn văn Bào. Tên một phu mộ Bắc kì làm việc cho ông chủ Wright từ năm 1923 tại đồn điền Surenda đảo Santo. Đến cuối năm 1924, ông này bị tên cai da đen tên Bagio đá gẫy hai xương đùi phải đi sang Noumea để chữa trị vết thương. Sau đó ông được chủ cho hồi hương với khoản tiên đền bù là 2.640 francs. Vì với thương tật như thế thì ông không thể tiếp tục làm việc bình thường được nữa. Ông chủ Wright đã xử lí đẹp trên cả luật định. Vì điều khoản quy định cho việc thanh toán tiền thâm niên sau 5 năm làm việc cho một cu-li hồi hương là 1.800 franc. Còn tên cai đen Bagio thì bị đưa ra tòa án. (Báo “les Annales Coloniales tháng 2 năm 1924).


1924. Ngày 21/9, Tầu Saiko Maru của Nhật đã chở 638 người từ Hải phòng đến Noumea. Trong số đó có 400 người dành cho Cty Nickel và 238 người dành cho Tân đảo New Hebrides. Trong số này có 100 cặp vợ chồng và 38 đứa trẻ nhỏ.Tầu này chở 2.500 tấn than từ bến cảng Hon gai cho nhà máy ni-ken và 300 tấn xi-măng Hải phòng cho thành phố Noumea. (trích dịch bài viết trên Báo “Les Annales coloniales” đăng tải ngày 8/12/1924)
1925. Ngày 11/3, Tầu Saint Francois Xavier chở 500 người từ Hải phòng tới Noumea.Trong số đó có 300 người đi Tahiti và 200 người ở lại Noumea. (Báo Echos annamites 15/3/1925)
1925. Ngày 25/3. Tầu Saint Francois Xavier chở 500 người phu mộ hồi hương đầu tiên từ Noumea cập bến cảng Hải phòng. (Báo Annales coloniales 8/5/1925)
1925. Ngày 24/5. Tầu Saint Francois Xavier rời Hải phòng với 456 người. Trong số đó có 381 người đi Tahiti và 75 người dành cho Noumea. Trung tuần tháng sáu, tầu rời bến Noumea đi Papeete Tahiti. Chuyển giao số người làm xong. Bốc hàng (dừa khô) và chạy thẳng đi Hải phòng. (Báo Eveil economique de l’Indochine)
1925. Ngày 25/4. Nghị định của Ngân quỹ mộ phu có điều khoản về quyền lợi của người kí kết giao kèo khi hồi hương là được hưởng số tiền là 1.800 franc. Số tiền này tích lũy từ việc triết khấu lương là 90 franc một quý. Như vậy một năm sẽ là 360 franc và trong 5 năm, tông số tiền sẽ là 1.800 franc. Trường hợp đương sự bị tử vong thì người thừa kế sẽ được truy lĩnh. (Báo Annales coloniales)
1926. Ngày 5/01. Tầu mang tên s/s Rabelais đã chở 100 người cu-li tonkinois  rời Hải phóng đến quấn đảo Societe Polynesia. (Báo Indochine – Revue Economique E.O)


1925. Tại Tân đảo New Hebrides. Trong tổng số 147 cu-li tonkinois đến từ năm 1920 hết hạn hợp đồng. Chỉ có 45 người hồi hương, còn 102 người buộc phải kí kết gia hạn lại hợp đồng mới vì không có tiền đề mang về quê quán. (Báo Eveil economique de l’Indochine)
1926. Ngày 05/10. Tầu Saint Francois Xavier đã chở 528 người lao động và 30 trẻ em rời Hải phòng đến Noumea. (Báo Indochine – Revue economique E.O)
1926. Ngày 20/11. Tầu Rabelais chở 740 người lao động tonkinois dành cho New Caledonia đã bị bão làm trôi dạt vào bờ biển Philippines. Không rõ số phận của họ ra sao (Báo Indochine – Revue economique de l’Extreme Orient).

 Thành phổ thủ phủ Noumea New Caledonia

1927. Ngày 03/02 tức mồng hai Tết Nguyên đán tại Noumea. Nửa đêm về sáng. 7 công nhân tonkinois làm việc tại khu đúc kền nhà máy Nickel đã lẻn vào phòng ngủ của đốc công Dao van Tang (Tiếng Pháp không có dấu) và dùng gậy sắt đánh trọng thương phải đi cấp cứu tại bệnh viện. Hơn một tháng sau mới xuất viện. Số phạm nhân đã bị bắt vào tù và được tha sau 48 tiếng giam giữ. Nguyên nhân vụ việc là số công nhân nghi vấn đốc công Dao van Tang biển thủ số tiền họ gửi để chuyển về quê quán của họ. Ngày mùng 6 ông chủ nhất đi kiểm tra và kinh ngạc thấy đám đông công nhân tụ tập ngay tại cổng nhà máy. Ông chủ đã nhận được một kiền nghị của công nhân đòi trục xuất ngay đốc công. Ông chủ hứa sẽ giải quyết ổn thỏa sau khi có phán quyết của chính quyền sở tại. Nhận thấy có sự phản kháng trong đám công nhân, ông chủ yêu cầu cảnh sát giải tán đám đông. Quá phẫn nộ họ đã dùng đá sỏi ném cảnh sát. Một công nhân cầm dao định đâm phía sau lưng cảnh sát. Để tự vệ cảnh sát rút súng bắn làm người này và một người khác trọng thương. Le quang Dat số đăng kí 6023, người cầm dao đâm cảnh sát đã tử vong khi tới bệnh viện. Người thứ hai tên Vu Kinh số 2860 đã xuất viện sau 5 ngày điều trị.
Tòa đã kết án 2 trong số 7 thủ phạm mỗi người 15 ngày tù giam và nộp án phí 765 francs cho người bị xâm hại. Người cảnh sát được tha bổng vì tự vệ chính đáng. Đốc công Dai van Tang nguyên là một lính thuộc địa đã từng tham gia thế chiến thứ nhát tại Pháp. Là một người rất năng động nên được Nhà máy trọng dụng. (Báo Indochine Revue Economique de l’Extreme Orient)

1927. Ngày 05/07. Tầu Saint Francois Xavier của hãng Ballande đã gặp tai nạn  bị đắm chìm. Trên tầu chở một số cu-li tonkinois dự kiến đến Noumea. Không có thông tin chính thức về vụ việc này. (Báo Indochine Revue Economique de l’Extreme Orient)

1923-1927. Thống kê trong vòng 5 năm ở Tân đảo New Hebrides cho biết số người cu-li phu mộ tông ki noa tăng hàng năm như sau : Đến cuối năm 1923 chỉ có 500 đầu người. Cuối năm 1924 tăng lên 1.620. Cuối năm 1925 tăng lên 2.139. Cuối năm 1926 lên 3.473 và cuối năm 1927 là 4.607.Nhưng trong vòng 5 năm đó phải khấu trừ 245 người chết và 69 người hồi hương. (Báo Indochine Revue Economique de l’Extreme Orient)

1928. Ngày 27/03. Con tầu mang tên Calulu của hãng Denis Freres đã chở trên 100 người cu-li  từ Noumea hồi hương về Hải phòng. Trong đó có một số người xin trở lại Caledonie tiếp tục gia hạn hợp đồng lao động. (Báo Annales coloniales).



1928. Travailleurs engagés tonkinois au décorticage de cocos aux Nouvelles Hebrides/Vanuatu (internet)
Công nhân phu mộ VN đang hái dừa. Bổ và nạo cùi dừa trong đồn điền ở Tân đảo New Hebrides/Vanuatu.


 Hình ảnh về người phu mộ làm việc trong đồn điền dừa ở Tân đảo.
Images des engagés tonkinois  travaillant dans une plantation aux Nouvelles-Hebrides


1928. Ngày 8/10. Có 80 người cu-li tonkinois do ông Bazin tuyển mộ tại Hải phòng  đã tự ý hủy hợp đồng và bỏ trốn. Đây là một bài học lớn cho cơ quan tuyển dụng phu mộ. (Báo Annales Coloniales).

1928. Sau khi tầu Saint Francois Xavier bị đắm. Không rõ số phận những người cu-li phu mộ trên tầu ra sao ? Nhưng cũng từ đó tầu La Perouse và sau này có tầu Pierre Loti đã thực hiên việc chuyên chở người phu mộ đến Caledonie, Hebrides và Polynesie được thường xuyên và đúng lịch trình hơn. (Báo Indochine Revue Economique de l’Extreme Orient)

1928. Bác sĩ Đào Văn Thái thường gọi là Đốc-tờ Thái đến nhậm chức vụ tại bệnh viện dành cho người địa phương và người tông-ki-noa (Hôpital indigène). Bác sĩ Thái đã cùng với Giáo sư Roncin H. tập trung nghiên cứu về căn bệnh sốt rét (malaria) và phương pháp điều trị.


1939. Giáo sư Herivaux, Roncin và Dao Văn Thái đã thực hiện một số công trình khảo sát trong khu vực đảo Vate và thành phố Port Vila. Họ đã phát hiện nguyên nhân của các ấu trùng muỗi a-nô-phen (anopheles).
Năm 1952 Đốc tờ Đào Văn Thái đã đệ trình bản luận án tại Viện Y học Hà nội. (Báo cáo Annales de la medecine et de la pharmacie coloniales).


1929. Ngày 8/02. Toàn quyền Alfred Bazin bị ám sát tại Hà Nội. (Báo Entreprises Coloniales). Trùng hợp với vụ ám sát tên chủ đồn điền  Xơ-va-liê tại Malo Pass ở Santo (Bài viết của Luật sư Louis Gabriel FROUIN đăng trên báo « Le Néo-hebridais năm 1931).



1929. Một trong những bức thư lâu đời nhất của người phu mộ VN ở Tân đảo NH/Vanuatu. Thư gửi từ Việt Nam.
Parmi l'une des plus anciennes lettres des travailleurs engagés tonkinois aux Nouvelles Hebrides/Vanuatu, envoyée du Viet Nam.



1930. Công nhân phu mộ tông-ki-noa (Bắc kì) chặt phá rừng trong đồn điến ở Tân đảo New Hebrides/Vanuatu.
Les travailleurs engagés tonkinois travaillant au debroussaillage dans une plantatation aux Nouvelles Hebrides.



 1920. Trại đề-bô trung tâm (ảnh bên trái) tại  Port Vila Tân đảo. Nơi tập trung đến và đi của người phu mộ VN tại Tan đảo. Xây dựng năm 1920. Khu trại đề-bô nay không còn nữa. Một doanh nhân TQ đã mua khu đất và xây dựng siêu thị lớn.
Le dépôt central (à gauche) de Port Vila Nouvelles Hebrides.
Lieu de quarantaine sanitaire et centre d'accueil des travailleurs engagés venant de et partant pour Haiphong Viet nam. Construit depuis 1920. Ce dépôt n'existe plus. Un commercant chinois l'a démoli et construit un supermarché.




1931. Débarquement des condamnés à mort. 
Tử tù đưa từ Noumea về Port Vila. (Internet)


Plaque mémoriale des 6 condamnés à mort. Dont quatre responsables principaux sont: MM BUI Van Buoc - NGUYEN Huu Doc - NGUYEN Hiep et VU Van Que
Bia tưởng niệm 6 người phu mộ bị hành hình năm 1931.



1931. Tầu “La Perouse” (La Bê-rui) đã chuyên chở 6 người tử tù VN từ Noumea về Port Vila. Trong số đó có 4 người liên quan trực tiếp đến vụ án Malo Pass tại Santo Tân đảo. Có chở theo 1 cỗ máy chém đã từng chặt đầu nhiều người tử tù ở Tân Thế giới.
1931. Le bateau “La Perouse” venu de Noumea transportant à son bord les 6 condamnés à mort, dont 4 sont liés à l’Affaire  Malo Pass de Santo Nouvelles Hebrides/Vanuatu en 1929. Également une pièce de guillotine servant à la peine capitale des condamnés.



1930. Habitation de colon avec sa famille et ses ouvriers dans une plantation de cocotiers aux Nouvelles Hebrides/Vanuatu.
1930. Ảnh chụp nhà ở của chủ đồn điền cùng với gia đình và người làm việc trong một khu rừng trồng dừa ở Tân đảo/Vanuatu.
(Internet)



1930. Công việc nặng nhọc trong đồn điền dừa. Ngay cả phụ nữ cũng phải tham gia gánh vác công việc cùng nam giới.
(Internet)
Le dur labeur dans une plantation aux Nouvelle Hebrides, que même les femmes tonkinoises ne sont pas épargnées.

Đồn điền dừa do người phu mộ VN trồng tỉa ở Tân đảo New Hebrides/Vanuatu...
1930. Cocoteraies aux Nouvelles Hebrides/Vanuatu. Ces cocotiers ont été plantés par les travailleurs engagés tonkinois.




1930. Đốc tờ tiêm thuốc chữa bênh sốt rét rừng ở Tân đảo New Hebrides/Vanuatu. (internet)
1930. Piqures contre la malaria aux Nouvelles Hebrides.


1930. Marmites géantes en fonte servant à la cuisine pour les travailleurs engagés aux plantations Frouin à Mele Nouvelles Hebrides.
1930. Nồi lớn bằng gang dùng để nấu cơm cho công nhân phu mộ VN tại sở Phùa. Hiện vật vẫn còn nguyên vẹn tại nhà riêng của gia đinh Frouin ở Tagabe.


1930. Phu mộ VN phơi cùi dừa dưới nắng nóng trong đồn điền ỏ Tân đảo (New Hebrides/Vanuatu). (Internet)  
1930. Le séchage du coprah sous le soleil ardent dans une plantation aux Nouvelle Hebrides.
1930. Ngày lễ hội. Phu mộ VN biểu diễn cà khêu tại đường phố  ngay trước cừa hàng Ba lăng CFNH Port Vila Tân đảo.
1930. Jour de Fêtes. Démonstration d'équilibre sur les échasses dans une rue de Port Vila. On reconnait le magasin des comptoirs Ballande CFNH.


1938-1940. Các đồn điền ở Tân đảo đã xây dựng nhà sấy dừa. Trời nắng thì đẩy giàn phơi ra sân. Trời mưa hoặc buổi tối sấy bằng vỏ dừa khô trong lò.
Les planteurs aux N.H. ont construit les séchoirs de coprah. Beau temps, on expose le coprah au soleil. Le soir ou mauvais temps, on le fait sécher au four.


1939-1940. Xe tải lội qua suối Teuma đảo Vate Tân đảo.
Un camion traversant la rivière de Teuma Vate Nouvelles Hebrides/Vanuatu.


1942-1946.  Quân đội Mỹ đổ bộ vào Tân dảo.
Debarquement des US Military aux Nouvelles Hebrides



1942-1946. Hình ảnh người phu mộ VN thời quân đội Mỹ đổ bộ Tân đảo.
Images des travailleurs tonkinois au temps de la présence des troupes US Navy aux Nouvelles Hebrides. 

1944. Quân đội Hoa kì diễu hành tại đường phố Port Vila Tân đảo.
La presence des troupes US Navy à Port Vila Nouvelles Hebrides



 1942. Hội Tân thanh là tiền thân của Liên đoàn Ái hữu do Cụ Đặng Long Hưởng sáng lập và lãnh đạo. Người có dấu tròn đỏ là cụ Phán Nguyễn đức Thận sau được điều chuyển sang Noumea N.C.



Cổng chào tại Nhà thờ đầu tiên của người công giáo VN tại Mê-lê Tân đảo

1944. Cộng đồng người Việt Nam xây dựng và khánh thành Cổng chào tại Nhà thờ đầu tiên của người công giáo VN tại Mê-lê Tân đảo.
1944. Le portique d'entree (Arc de triomphe) de l'eglise de Mele construit par la Communauté Vietnamienne de l'Ile de Vate Nouvelles Hebrides.
 

Xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình cao cả của hai vị Chân Nho Đông Hoàng và Đặng Bá Uy trong việc dịch thuật các câu đối chữ nho được tôn tạo cách đây gần một thế kỉ.
JVJ còn nhớ cách đây mấy năm. Có mấy vị chân tu ghé thăm nhưng chỉ dịch được mấy chữ còn rõ nét. Do vậy cũng không thể hiểu hết ý nghĩa xâu xa của cả vế đối.
Nay may mắn được hai vị giúp đỡ, khiến chúng tôi nhớ lại là hai câu đối đó đã nói rõ được bối cảnh và tình cảm của cộng đồng người VN lúc bấy giờ ở Tân đảo. Trong hoàn cảnh sống xa quê hương, các cụ đã cùng nhau đoàn kết đùm bọc no đói có nhau. Không phân biệt tôn giáo giầu nghèo. Chả thế mà chỉ là người cùng Tỉnh đã coi nhau như anh chị em ruột thịt rồi.

Câu 11 chữ như sau:
-Vế trước (bên tay phải):
美水來潮道釋西邊均立柱。
MỸ THUỶ LAI TRIỀU, ĐẠO THÍCH TÂY BIÊN QUÂN LẬP TRỤ.
Giải nghĩa (đại ý): Đây là Trụ do bên Đạo, bên Phật (Thích) cùng đóng góp như nhau (Quân - Bình quân) lập nên ở rìa phía Tây (Tây biên) nơi nước đẹp chầu về.

- Vế đối (bên tay trái):
青山拜拱東西二派共修門.
THANH SƠN BÁI CỦNG, ĐÔNG TÂY NHỊ PHÁI CỘNG TU MÔN.
Sơ lược giải nghĩa: Đây là cửa cùng tu tập (Cộng tu môn) của hai phái Đông và Tây ở nơi núi xanh chắp tay vái vào. 

 
 Lễ đài tưởng niệm và Cổng chính tại Nghĩa trang người Công giáo VN
tại Port Vila Tân đảo. Được xây dưng năm 1944.

  
 Lễ đài tưởng niệm tại Nghĩa trang của người VN tại Port Vila Vanuatu.

 

Lễ đài tưởng niệm uy nghi, bề thế của khu Nghĩa trang người Việt nam
tại Port Vila Tân đảo (Vanuatu).
Được xây dựng năm 1945 và hoàn thành năm 1946 do công sức của bà Nguyễn Thị Bút, của các Tỉnh bộ, Khánh hội Long vân và cộng đồng người Việt tại Port Vila.

Dưới đây là bài dịch thuật của các ông Lưu Đình Tuân, Phạm Quyết Chiến và Đông Hoàng. Theo nhận định của các ông thì câu đối mà Cụ Đồ Phấn biên soạn rất hoàn chỉnh, hàm ý sâu xa. Chan chứa tâm tư tình cảm, tình thương thầm kín đối với người đã khuất. Đồng thời nhắn nhủ đồng bào luôn hướng về Quê hương Đát nước, Tổ quốc Việt nam thân yêu của mình.

Câu đối bên phải:  噗  也  同  胞  鴻  北 去  Thán dã đông bào hồng Bắc khứ có nghĩa là: Than ôi! Đồng bào ta đã theo chim Hồng bay về Phương Bắc.
Câu đói bên trái  呼  我   種    格   南  歸  Ta hồ ngã chủng cách Nam quy có nghĩa là: Tiếc thay! Dòng giống cốt nhục này vẫn ở mãi với Trời Nam.
aRose11.gif


30.6.1946. Người Phu mộ VN làm Cách mạng ở Port Vila Tân đảo. Hội Liên đoàn Ái hữu VN do ông Đặng Long Hưởng và Liên đoàn Thợ thuyền VN do ông Đồng Sỹ Hứa lãnh đạo đã kết hợp tổ chức kéo cờ đỏ Sao vàng ngay tại Thủ phủ Port Vila Tân đảo. Đòi hỏi quyền bình đẳng và tự do.
30.6.1946. La Révolution des travailleurs engagés vietnamiens à Port Vila Nouvelles Hebrides/Vanuatu. L’Union des Associations vietnamiennes et l’Union des Travailleurs vietnamiens présidées par MM Dang Long Huong et Dong Sy Hua ont organisé un rassemblement et hissé le drapeau rouge à étoile jaune dans le chef lieu de Port Vila. Réclamant le droit d’égalité et de la liberté civique.

1946. Xe Jeep của lãnh tụ Việt Nam Công đoàn tại Tagabe Port Vila Tân đảo.
La fameuse Jeep du Chef Leader du Syndicat Vietnamien à Tagabe.

 Bà con Việt kiều Port Vila  biểu tình đình công đòi tầu hồi hương về Việt Nam.
Manifestation des travaileurs vietnamiens de Port Vila N.H. reclamant le rapatriement à Haiphong

 1946. Trường dậy tiếng VN đầu tiên của Hội VN Công đoàn ở Port Vila Tân đảo do Thầy giáo Trịnh Văn Thuật phụ trách. Sau trường này chuyển vào Tagabe.
1946. Première école enseignant le vietnamien du Syndicat vietnamien à Port Vila sous la direction de Mr Trinh Van Thuat.


1948. Trường Cộng hòa nguyên là trường Liên đoàn Ái hữu ở nhà thuốc Tây chuyển về đây. Do các thầy giáo Bùi Gia Dzự - Nguyễn hữu Đăng và Nguyễn Trọng Quế giảng dậy.
Ex premiere école vietnamienne derriere la pharmacie francaise à Port Vila Nouvelles Hebrides.


Tháng 1 và tháng 8 năm 1947. Hai chuyến tầu hồi hương đầu tiên chở trên 1.400 bà con Việt kiều Port Vila và Santo về Hải phòng trên con tầu Vin-Đa-miêng.
Janvier et Aout 1947. Le paquebot Ville d'Amiens a effectué deux convois de rapatriement à Haiphong. Transportant à son bord plus de 1.400 vietnamiens.



 1947. Thành lập Hội Việt Nam Công nhân Tân Thế giới tại Noumea.
Formation de l'Association des Travailleurs vietnamiens à Noumea Nouvelle Caledonie.


27/7/1948. Bà con Việt kiều Port Vila Tân đảo tổ chức Lễ Thương binh Liệt sĩ .
La communauté vietnamienne de Port Vila commémore la Journée des Invalides et Morts pour la Patrie.



1948. Đội Thiếu sinh quân đầu tiên của thanh thiếu niên Việ Nam tại Port Vila Tân đảo.
Première formation du Scoutisme des jeunes pioniers vietnamiens à Port Vila Nouvelles Hebrides/Vanuatu.

1950. Đội bóng đá trung niên đầu tiên của người VN tại Port Vila Tân đảo.
1ere équipe de football des vétérans vietnamiens à Port Vila N.H.




1953. Biểu tình đòi tầu hồi hương về VN và phản đối chiến tranh trên đường phố dẫn tới Tòa sứ Pháp tại Port Vila Tân đảo.
Manifestations pour le rapatriement au VN. La marche sur les routes menant à la Résidence de France à Port Vila Nouvelles Hebrides/Vanuatu.


1953-1954. Cộng đồng người công giáo VN xây dựng nhà thờ và trường học tại địa phận giáo xứ ma-rít Port Vila Tân đảo do Linh mục Nguyễn năng Vịnh chỉ đạo.
La communauté vietnamienne érige son église/école à la paroisse des pères maristes à Port Vila Nouvelles Hébrides  sous la direction du Père NGUYEN Nang Vinh .  








1954. Thành lập Đoàn Thanh thiếu niên Ái quốc VN Tân Thế giới.
Formation de la Jeunesse vietnamienne de Nouvelle Caledonie.

 1955. Cộng đồng người công giáo VN tai Port Vila tổ chức Lễ Hội Thánh Fatima.
Fête consacrée à la Dame de Fatima organisée par la Communauté vietnamienne de Port Vila Nouvelles Hebrides.


1955. Bến xe Taxi của người VN tại Port Vila Tân đảo.
Station de Taxis des vietnamiens à Port Vila Nouvelles Hebrides.


 1956. Thành lập Đoàn Thanh thiếu niên Ái quốc VN tại Tagabe Tân đảo.
Formation de la Jeunesse vietnamienne à Tagabe New Hebrides


1956. Thành lập Đội Thiếu niên Tiên phong VN tại Trương học Tagabe


 1956. Thành lập ban Văn nghệ thanh niên VN tại Tagabe Tân đảo do ông Đào Văn Khải phụ trách.
Formation du groupement musical de la jeunesse vietnamienne à Tagabe Nouvelles Hebrides présidé par Dao Van Khai. 


 1960. Bà con Việt Kiều Port Vila Tân đảo đón chào phái đoàn Bộ Ngoại giao VNDCCH do ông Vũ Hoàng dẫn đầu .
1960. L'accueil des vietnamiens de Port Vila réservé à la Délégation des Affaires Etrangères de la RDVN présidée par Mr VU Hoang.


1960. Đoàn Thanh niên VN tại Santo Tân đảo.
La jeunesse vietnamienne de Santo Nouvelles Hebrides.


30/12/1960. Tầu Eastern Queen thực hiện chuyến đầu tiên chở 550 bà con Việt kiều Tân Thế giới (New Caledonia) về Hải phòng.
Premier convoi de rapatriement effectué par Eastern Queen transportant à son bord 550 vietnamiens de Nouvelle-Caledonie à Haiphong.





1960. Bà con VK Vila và Santo đón chào ông Vũ Hoàng - Trưởng Phái đoàn Ngoại giao nước VNDCCH
Accueil des vietnamiens de Port Vila et  Santo réservé à Mr Vu Hoang - Chef de la Délégation des Affaires Etrangères de la RDVN.


1961. Việt Kiều Santo Tân đảo Biểu tình đòi tầu hồi hương về Việt Nam.
Luganville Santo. Manifestations de la communauté vietnamienne réclamant le rapatriement au VN.

1961. Biểu tình chống đối việc chính quyền Pháp  làm gián đoạn công cuộc  hồi hương về VN. Ảnh của Dương văn Đạm chụp đoàn biểu tình trước Văn phòng quyền ủy Pháp tại Port Vila Tân đảo
1961. Manifestations des vietnamiens contre la rupture du rapatriement au VN. Photo prise devant les bureaux de la Police et Delegation francaise à Port Vila Nouvelles Hebrides.

1962. Chiến thắng lẫy lừng của đội tuyển bóng đá Thanh niên VN (USV) gặp đội SUMAT của Maxime Carlot trong trận chung kết đoạt cúp luân lưu của hiệp hội Bóng đá Tân đảo.
Grande Victoire de l'equipe de football USV contre SUMAT en 1962. Finale de la Coupe de la Federation de Football des Nouvelles Hebrides.


VNCNĐ Santo Tân đảo. Đoàn thanh niên Việt kiều yêu nước. Sẵn sàng lên đường trở về quê hương phục vụ Tổ quốc.
La jeunesse vietnamienne à Santo Nouvelles Hebrides. Prêts au rapatriement pour le salut du pays des ancêtres.

1963. Mr Le Trung Thuy - Chef de la Délégation de la Croix Rouge Vietnamienne avec la Jeunesse Sportive Vietnemienne de Port Vila.
Ông LÊ Trung Thủy - Trưởng phái đoan Hồng Thập Tự VN chụp ảnh lưu niệm với anh chị em TTN VN tại Port Vila Tân đảo.





Thắng lợi đã đến rồi. Ngày 28/7/1963, bà con Việt kiều Tân đảo đã vô cùng phấn khởi bước chân lên con tầu Hoàng Hậu Phương đông đang neo đậu trong vịnh Vila, nóng lòng chờ đón đàn con thân yêu trở về Tổ quốc Việt Nam.
Le jour de gloire est arrivé. Le 28/7/1963, des centaines de rapatriés vietnamiens s’empressent de se faire embarquer sur le fameux Eastern Queen ancré dans Vila Bay, attendant patiemment les heureux passagers à la destination du Viet Nam.



28/9/1963. Đến lượt Bà con VK tại đảo Santo được đón chào và chiêm ngưỡng con tầu định mênh mang tên Hoàng hậu Phương đông neo đậu tại cảng Canal. Người phu mộ chân đăng hồ hởi và phấn khởi nóng lòng đưa đàn con đông đúc trở lại quê hương sau mấy chục năm xa cách.

En Septembre 1963. Nos compatriotes vietnamiens de Santo ont eu le bonheur d’admirer le paquebot du destin qui porte le joli nom d’Eastern Queen. Souriant et accueillant à son bord les 560 premiers passagers, d’origine d’engagés et leur progénitures de rentrer au bercail, apres plusieurs d’annees d’absence.

Hết phần một - Fin de la 1ere partie


aRose11.gif

Tác giả Blog xin kính chào và chân thành cảm ơn sự quan tâm theo dõi, góp ý phê bình và chia sẻ của tất cả các qúy vị độc giả cùng bà con anh chị em trên mạng.
Xin chúc mọi người vui vẻ, khỏe mạnh, thành đạt và hạnh phúc.

L’auteur du Blog vous salue et tient à remercier sincèrement à ses aimables lecteurs et lectrices qui l’ont suivi attentivement et qui ont partagé leur soutien, leurs opinions et aussi leurs critiques.
Meilleurs vœux et souhaits de joie, santé et bonheur à TOUS.