Powered By Blogger

Monday, March 18, 2019

AN NAM PHU MỘ SỬ THI - Kỉ niệm 100 năm người VN ở Tân đảo (New Hebrides/Vanuatu)


AN NAM PHU MỘ SỬ THI


Thơ viết về đề tài lịch sử của người Phu mộ
Việt Nam Tại Tân đảo (New Hebrides/Vanuatu)

Jean Vanson biên soạn và lên trang Blog


 KNgười lao đông phu mộ làm việc trong đồn điền dừa ở Tân đảo.

LỜI NÓI ĐÂU

1920-2020. Nhân dịp chuẩn bị kỉ niệm 100 năm sắp tới về sự hiện diện của người Phu mộ Việt Nam đầu tiên đến Tân đảo theo diện hợp đồng lao động chính thức (Engagés sous-contrat officiel) và sự tiến triển của các thế hệ con cháu các Cụ sau này tại Vanuatu cũng như ở Việt nam và các nơi khác.
Lão Văn xin mạn phép kể truyện trăm năm bằng bài thơ lục bát dài viết về đề tài lịch sử nhằm tưởng nhớ và vinh danh các vị Tiền bối. Đồng thời để  kỉ niệm trang sử vẻ vang về  cuộc đời tha phương muôn vàn chông gai của các cụ phu mộ chân đăng Việt Nam đi lao động kiếm miếng cơm manh áo ở xứ Tân đảo thời xa xưa và sự tiếp bước của con cháu hậu duệ của các Cụ cho đến ngày nay.
Trong bản luận án của bà Frederique Tailhade "La colonisation des Nouvelles Hebrides et les Indochinois" có nêu câu nói bất hủ của một số chủ đồn điền cỡ lớn ở Tân đảo. Họ thừa nhận :
« Les Nouvelles-Hébrides ont été faites par les VIET »
 (Chính người Việt Nam đã xây dựng nên đất nước Tân đảo)


Xin mời quý vị đón đọc vần thơ sau đây.

Thành tâm kính viếng hương hồn các vị Tiền bôi.

Phần một – Tự nguyện đi Tân thế

Khởi nghiệp…

Ai bảo đi Tây là khổ,
Văn minh sung sướng, giấc mơ làm giầu.
Chẳng may số phận hầm hiu,
Đưa đẩy vào chốn di cư vô bờ.
Bụng đói đầu gối phải bò,
Xẩy nhà thất nghiệp, mối lo khôn cùng.
Vận may cũng được trời thương,
Cùng bè cùng thuyền, bão bùng xá chi.






Tân đảo xa tắp phương trời,
Phì nhiêu mầu mỡ, đất đai bạt ngàn.
Vì chưng thiếu hụt người làm,
Dân người bản xứ, dầy ăn mỏng làm.
Đất kia khai phá hồi hôm,
Hai tuần nửa tháng, cỏ trùm rừng xanh.
Bất lực điền chủ xoay quanh,
Lao động người Việt, chủ khen cần cù.

 Ông Lăng-xông - điền chủ ở đảo Ê-pi - là người đầu tiên về VN tuyển phu mộ năm 1920.

Bắc kỳ nạn đói lu bù,
Chủ Tây một chuyến, công du thăm dò.
Chính phủ bào hộ đắn đo,
Kết quả hiệp định, vòng vo luận bàn.
Thỏa thuận kí kết nhiều bên,
Tuyển dụng phu mộ, đi Tân đảo này.
Chân đăng mỏ kền an bài,
Đảo dừa còn thiếu, cần ngay nhiều người.


Trăm năm một chín hai mươi, (1920)
Ngàn người đăng kí, mười người gọi danh.
Nhà nông, lao động đã đành,
Công nhân trí thức, cũng giành mưu sinh.
Thực tình, mình tự buộc mình,
Vì chưng nghèo đói, dứt tình ra đi.
Thân trâu đã chẳng ra gì,
Vấp phải kiếp ngựa, phận này đắng cay.

Vì chưng điều khoản đi Tây,
Lương bổng hợp đồng, ưu đãi cao sang.
Dân tình thấy vậy cũng ham,
Đằng nào cũng chết, bận tâm làm gì,
Hơn thiệt tính nước ra đi,
Trời thương Đất mến, gặp thời vận may.
Người Tây chính sách cũng hay,
Văn minh nhân đạo, không ai sánh tầy.



Nguồn cơn…



Vì chưng lụt úng tháng ngày,
Làm không người mướn, cấy cầy ai thuê.
Đói cơm rách áo ê chề,
Ăn xin ăn mày, đổ về khắp nơi.
Sưu cao thuế nặng tơi bời,
Trốn đâu cho thoát, cuộc đời lầm than.
Địa chủ với lũ tham quan,
Khinh người như rác, dân lành thác oan.

Cũng mong thoát cảnh nghèo nàn,
Giao kèo điểm chỉ, làm ăn xứ người.
Dân nghèo mong muốn đổi đời,
Kiến an Nam định, xa vời Quảng uyên,
Hà nam, Thái binh, Hưng yên,
Hải dương, Ninh bình, Thái nguyên quê nhà.
Gian truân trên đất người ta,
Sáu Kho bến Cảng, trẻ già cùng nhau.

Vận may kẻ trước người sau,
Ký kết giao kèo, lên tầu viễn dương.
Vì đâu gia cảnh ly hương,
Gạt dòng nước mắt, khóc thương quê nhà.
Đại dương một tháng bôn ba,
Lênh đênh sóng biển, Đất xa Trời gần.
Xa nhà khổ đã vô vàn,
Dân cầy vượt biển, gian nan hết lời.




Tháng ròng rồi cũng đến nơi,
Núi non trùng điệp, tả tơi cõi lòng.
Cũng đành nhắm mắt xuôi dòng,
Đề-bô là chốn, tập trung đi về.
Vợ chồng mong giữ lời thề,
Đến đây chịu cảnh, phu thê đôi miền.
Vợ buộc ở lại đất liền,
Chồng đi xa tắp, tận miền đảo xa.

Thân phận nương xứ người ta,
Trót làm nô lệ, kêu ca động Trời.
Khóc than cũng chẳng làm chi,
Trời cao chẳng thấu, quan thì làm ngơ.
Phá rừng sáng tối bơ phờ,
Khoán làm không đủ, còn nợ cúp lương.
Nay đau mai yếu khôn lường,
Chủ nghi giả vờ, chẳng thương đâu nào.




Khí hậu khắc nghiệt lực hao,
Nhà thương chưa tới, lạc vào nghĩa trang.
Đồn điền chữa chạy thuốc thang,
Kí-ninh sốt rét, bệnh nặng tiêm mông.
Chủ dùng cai kí đốc công,
Roi vọt đấm đá, tâng công với thầy.
Cai kí đòn ác hơn thầy,
Giun đạp cũng quắn, huống chi là người.



  


Tháng ngày sống với lũ người,
Lòng lang dạ thú, một loài thực dân.
Man di mọi rợ trăm phần,
Hung thần ác bá, bạo tàn sớm trưa.
Phá rừng cuốc đất trồng dừa,
Mức khoán không đủ, thiếu thừa trừ lương,
Sức vóc suy yếu cùng đường,
Bón mươi thành “cụ”, thảm thương vô cùng.

Năm năm mãn hạn khoan dung,
Mấy người tiền có, vui mừng về quê.
Kẻ khó bấn bíu trăm bề,
Điểm chỉ thêm khóa, ngày về vời xa.
Vẫn mơ giấc mộng Nam kha,
Trở về Đất Tổ, hằng hà tiền vô.
Vận may cũng chỉ mơ hồ,
Gia hạn nhiều khóa, cơ đồ thấy đâu.







Trải qua cuộc đời bể dâu,
Chân đăng phu mộ, đêm thâu não nùng. (l)
Quạnh hiu sống với núi rừng,
Dừa cao xanh ngát, thân cùng ra ma.
Cơm hẩm thịt muối dưa cà,
Gân bò nắm đấm, roi da lưng oằn.
Da vàng nô lệ thế gian,
Đích thị Tân đảo, rõ ràng không sai.



Phần Hai

Mất tên…

Nhập cư chưa kịp an bài,
Tên họ bị mất. số cài thay tên.
Xăng toa, xăng cát đầu tiên, (Cent trois, cent quatre)
Ghi danh điểm chỉ, chủ liền ra tay.
Không may số chẳng ra gì,
Xăng-tô Ê-bì, Ma-lì phải đi. (Ma-lì = Malicolo)
Đảo xa là chốn man di,
Rừng thiêng nước độc, chủ lấy vợ đen.

  Bộ lac ăn thịt người (canibalisme) ở Tân đảo xưa.

Đốc công cai kí anh em,
Thân hình lực lưỡng, trâu điên không bằng.
Con cháu của lũ người rừng,
Chuyên ăn thịt người, sống cùng cỏ cây.
Một đòn chí mạng ra tay,
Cu-li phu mộ, thân này bệnh mang.
Nhẹ thì đi đến nhà thương,
Nặng thì cho về, hồi hương tức thì.

Cớ đâu chủ lại ác tai,
Không theo điều khoản, đã ghi hợp đồng.
Vì chưng đắt đỏ nhân công,
Thiên tai thua lỗ, mùa màng thất thu.
Tính ra suốt sáu năm đầu,
Chủ phải bù nợ, âu sầu lo toan.
Nẩy sinh tính khí bất an,
Cục cằn thô lỗ, đánh càn cu-li.

  Bản đồ phía Nam đảo Santo - Malo - Ao rê - Aiss ...

Xăng-tô có đồn điền My,
Ác-bi-lô xa tắp, Sa-bi lại gân, (Chapuis)
U xà cho đên Ăng-ghền (Houchard – Hagen)
Sở Đờ-bi-sạt, Gạc-đền đường xa (De Béchade – Gardel)
Ao-rê Mã-lô Ra-tà, (Aore – Malo – Ratard)
Sì-môn-sen, Sù-rên-đa tù mù. (Simonsen-Surrenda)
Từ đảo A-ít, Sa-rà-u-tu, (Aisse – Saraoutu)
Bao nhiêu thân phận, hận thù khắc ghi.

Đảo kia xa chốn quan sai,
Thân tan thịt nát, như loài ngựa trâu.
To gan thưa kiện thấy đâu,
Tật mang tiền mất, âu sầu bi quan.
Những ai có phúc có phần,
A-le Mi-tít, Đờ-găng Vi-là.
Cô-lạc-đô cho đến Tiêu-ma,
Điều kiện sính sống, cũng là khá  hơn.

  Bản đồ đảo Ê-pha-tê (Efate) thủ đô là Port Vila.

Thương thay số phận hẩm hưu,
Chủ thì bạo hành, trăm điều ác tai.
Đảo xa là chốn khổ sai,
Gốc dừa vùi lấp, bồng lai an bài.
Thôi thì chữ mệnh chữ Tài,
Khắc ghi bia mộ, mờ phai cõi trần.
Miếng cơm manh áo gạo tiền,
Cũng đành nhăm mắt, đưa chân đường cùng.

Vùng lên…

Một chín hai chín (1929) vẫy vùng,
Vỡ bờ tức nước, đường cùng ra tay.
San-tô ngậm đắng nuốt cay,
Vụ Mã-lô Bát một ngày âm vang, (Malo Pass)
Diệt ngay tên chủ bạo tàn,
Sinh linh thác xuống, nỗi oan giải liền.
Lẫy lừng vang tiếng khắp miền,
Một đòn cảnh tỉnh, gông xiềng đập tan.



Máy chém vô cảm thác oan,
Sáu đầu lìa xác, vùi thân một mồ.
Chính quyền câm xây bia mộ,
Nhằm xóa dấu vết, xanh cỏ vô danh.
Bốn sáu cộng đồng đấu tranh, (1946)
Được xây lăng mộ, vô danh anh hùng.
Gần đây tên tuổi tỏ tường,
Nhờ ông Ngô Vũ, truy lùng nhiều năm.

Bấy lâu sống cảnh lầm than,
Tự do chân lý, sẵn sàng đấu tranh.
Giới chủ khiếp sợ một vành,
Cu-li phu mộ, tiếng danh vang rền.
Nghĩa địa khắp các đồn điền,
Đảo nhỏ đảo lớn, không tên mộ nhiều.
Hoang tàn cỏ mọc tiêu điều,
Từ Nam chí Bắc, ít nhiều ngàn ngôi.

  Nghĩa trang người Việt nam ở Port Vila quay về phương Bắc

Vong linh thác xuống hỡi ôi,
Rừng dừa xanh cỏ, đời người quạnh cô.
Thân tàn nấp bóng hư vô,
Trăm năm còn đó, bia mộ ghi danh.
Vi-là lớn nhất nghĩa trang,
Trên ba trăm mộ, thảng hàng Bắc phương.
Mê-lê Mông-mác thánh đường,
Quy tụ phu mộ chân đăng chầu trời.

Công bằng minh xét đôi lời,
Nguyên nhân tật bệnh, lìa đời thác oan.
Cai chủ hành hạ đã đành,
Bệnh tật sốt rét, sốt vàng, thuốc đâu.
Kiết lỵ, thổ tả, ho lao.
May đố-tờ Thái họ Đào ra tay. (BS Đào Văn Thái 1939)
Tìm bệnh do muỗi truyền lây,
Giảm trừ tai họa, cứu người phu phen.


Nghĩa địa đất Thánh Mi-sên, (Saint Michel Santo)
Hàng trăm vong mộ, phận yên cuộc đời.
Giấc mơ ấp ủ một thời,
Mơ miền đất hứa, mộng trời phương nam.
Lao động vất vả gian nan,
Chiên tranh bùng nổ, gián đoạn hồi hương.
Lại lâm cảnh ngộ vô thường,
Nay no mai đói, Thiên đường còn xa.

Bỗng dưng…


1943. Quân đội Mỹ đổ bộ tại Vịnh Mê-lê

Trăm năm một chín bốn ba, (1943)
Lính Mỹ xuất hiện, rõ là cứu tinh.
Tự do bình đẳng phồn vinh,
Xây bia tưởng niệm, vinh danh nhiều đời.
Cùng nhau xây dựng cổng trời,
Mê-lê đất thánh, rạng ngời giáo dân.
Cổng chào Lễ đài tri ân,
Lịch sử văn hóa, danh rạng dân Nam.





Cũng nhờ lĩnh Mỹ vấn an,
Tân đảo trù phú, bảo toàn an ninh.
Bỗng dưng phút chốc vượng thịnh,
No cơm ấm áo, văn minh cuộc đời.
Rủi may chỉ có một thời,
Cơ vận thay đôi, cuộc đời đổi thay.
Hàn vi rồi cũng có ngày,
Nguồn vui chưa thỏa, đến ngày phải lo.

Mộ ông Nguyễn văn Tráng và ông Mai viết Túc 
(ảnh do anh chị Đinh Ninh và Hoang Lan chụp tại Ra-tà Santo)

Một chin bốn nhăm (1945) còn đó,
Ra-tà biểu tình, súng nổ đầu rơi.
Quan Tây giết hại hai người,
Ông Tráng ông Túc, thêm người thương vong.
Chính quyền xử cũng như không,
Thủ phạm run sợ, chạy trốn về Tây.
Đất Trời đâu thấu oan này,
Nỗi oan thác xuống, đắng cay muôn phần.

Nối liền vụ án phũ phàng,
Giết ba phu mộ, thảm thương vô cùng.
Ác-bi-lô tên chủ hung hăng,
Đã bị đền tội, tại hang núi rừng.
Chúa đảo tên Nà-tô-reng,
Quái ác vô độ, tột cùng dã man.
Đầu rơi thân xác chẳng toàn,
Hai anh em ruột, họ Trần liên can.



Xin chân thành cảm ơn quý vị và các bạn đã chú ý theo dõi phần một và phần hai. Xin mới quý vị xem tiếp phần bà và bốn trong kì tới. Xin chúc mọi người vui khỏe, may mắn, an khang, hạnh phúc.





Chân dung người phu mộ VN ở Tân đảo tập trung trong dịp Ngài Thanh tra lao động đi kinh lý.

Xin tóm lược lịch sử tha phương của người phu mộ đến Tân đảo.

Trên thực tế, sự có mặt của người VN ở Tân đảo sớm hơn nhiều. Theo dòng lịch sử, họ là những người tù khổ sai chung thân bị lưu đầy ở Tân Thế giới (New Caledonia) từ năm 1891. Trên chuyến tầu Xê-ri-bông từ Côn đảo đến Noumea, gần 800 con người. Trong đó có khoảng trên dưới 80 người là phu mộ có hợp đồng lao động chính thức được tuyển chọn và phân bổ đến làm việc trong các mỏ côm, mỏ kền.
Khoảng từ đầu năm 1900, một số tù khổ sai đã được thuyên chuyển từ Noumea sang Tân đảo (New Hebrides) làm việc trong một số đồn điền ở đảo Ê-pha-tê (Efate) và Xăng-tô (Santo).

Chân dung một người tù khổ sai tại Tân đảo

Căn cứ vào trích dẫn trong bản luận án tiến sĩ của bà Frederique Tailhade (La colonisation des Nouvelles Hebrides et les Indochinois), thì ở đảo Xăng-tô có đồn điên nọ đã sửu dụng người cai tông-ki-noa trong việc quản lí, điều hành công viêc và trông coi người làm. Đồng thời căn cứ vào tài liệu của Tòa án hỗn hợp Port Vila, đã kết án ông Nguyen Van Hoi năm 1911, về tội danh bán rượu lậu cho người dân bản xứ. Thì chúng ta thấy rõ ràng là các vị đó là người Việt nam đầu tiên đến Tân đảo. Các điền chủ đều thừa nhận khả năng làm việc cũng như tính cần cù nhẫn nại của người  Việt nam thời đó. Một số người tù còn thông thạo cả tiếng Pháp  và đã được chủ trọng dụng trong rất nhiều việc. Đó cũng là một trong nhiều lý do khiến các điền chủ đã quyết định lựa chọn tuyển mộ nhân công người Bắc kì. Ngoài những tính tốt kể trên thì lương bổng rẻ mạt và các điều khoản sinh hoạt đơn giản cũng là yếu tố quan trọng trong việc quyết định tuyển mộ nhân công từ Việt Nam.

 Ông Phùa (LG Frouin) và gia đình tại Tagabe Tân đảo

Theo nhiều nguồn tin thì có một số ít điền chủ là những người có khả năng đầu tư mua bán khai thác đất đai ở Tân đảo. Họ đến từ Pháp và New Caledonia. Ở đảo Efate có mấy điên chủ nguyên là luật sư như các ông Đờ-găng (Des Granges), ông Bi-dôn (Pujol), ông Phùa (LG Frouin), ông Đờ Bê-vin (De Preville) v.v... Còn lại, đa số các chủ đồn điền xưa ở Tân đảo nguyên là tù khổ sai đã mãn hạn, thay vì được hồi hương về Pháp thì họ đã được phân bổ về các đồn điền hẻo lánh ở Tân đảo. Việc này đã được ghi nhận là hành dộng nhân đạo của Nhà nước Pháp. Đồng thời lại là biện pháp quản thúc. Họ bị giam lỏng ở một nơi xa xôi gần như cách biệt với thế giới. Đó cũng là nguyên nhân tại sao đa số các điền chủ lấy vợ da mầu người bản xứ. Và cũng là lý do tại sao các cai và đốc công trong các đồn điền đa số là người da mầu. Vì họ là những người anh em, thân thuộc bên họ nhà vợ của chủ. Mà cho đến nay, con cháu hậu duệ của họ còn khá đông ở Vanuatu cũng như các nơi khác trên thế giới.


Do công nhân người bản xứ không đáp ứng được nhu cầu khai thác và sản xuất trong đồn điền. Cộng với việc thiếu hụt nhân công do người Anh tuyển mộ đưa sang Úc và quần đảo Fiji trồng mía. Đầu năm 1920, ông Lăng-xông (Lançon), điền chủ người Pháp, là người đầu tiên đã trực tiếp về Việt nam tuyển dụng 65 nhân công cho đồn điên của ông tại đảo Ê-pi. Thực ra trước đó họ đã tuyển dụng công nhân từ Bắc Phi, cũng là thuộc địa của Pháp. Nhưng không đạt yêu cầu.

Ngày 31/8/1920, con tầu Xanh Phăng-xoa Xa-viê (Saint Francois Xavier) đã chuyên chở trên 500 người phu mộ từ Hải phòng đến Noumea. Sau đó tầu Pacific của Úc đã chở 165 người Bắc kì từ Noumea đến Port Vila Tân đảo theo diện hợp đồng lao động chính thức. (Theo nguồn tin của tờ báo « Les annales coloniales).

Theo thống kê không chính thức của Phòng tuyển dụng nhân sự thuộc địa, tính từ năm 1920 đến năm 1939 đã có 21.945 người lao động Việt nam đến Tân đảo và trở lại Hải phòng. Trong số này, cần lưu ý là có trên một ngàn người đã không may bị tử vong phải nằm lại vĩnh viễn, rải rác trên khắp các đảo. Người ta gọi đó là cuộc di dân tập thể của một khu vực này sang khu vực khác (La diaspora des peuplades).

Theo nhiều nguồn thông tin khác thì ở đảo Efate, nơi đặt bộ máy chính trị và quản lý hành chính của hai nước Anh Pháp, hầu như không thấy ghi nhận vụ bạo động trong các đồn điền nào cả. Cuộc sống của người lao động Bắc kì cũng được đảm bảo. Nhưng ở các đảo xa như Santo, Malakula, Ê-pi v.v… thì nhiều vụ bạo động đã xẩy ra. Có vụ nghiêm trọng như Malo Pass, Ác-bi-lô, Ra-tà ở Santo, No-súp, Ê-pi v.v…

 Những tử tù liên can trong vụ án Malo Pass năm 1929

Như chúng ta đã biết : đa số điền chủ ở các đảo hẻo lánh đều xuất thân từ tù khổ sai. Cộng thêm việc quản lý sơ khai, việc thiếu hụt nhân công, và sau này là việc tuyển mộ nhân công từ VN quá tốn kém. Rồi mùa màng thất bát do khí hậu thời tiết khắc nghiệt, giông bão triền miên dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ. Theo các thống kê quyết toán hàng năm thì cho đến năm thứ sáu, nhiều điền chủ vẫn còn bị treo nợ ở ngân hàng.

 Bản thanh quyết toán năm thứ sáu của một đồn điền ở Tân đảo.

Bởi vậy, ngoài yếu tố về bản chất của những người đã từng nếm mùi vị khắt khe trong các trại giam ngục tù, thì  việc điền chủ trở nên tiêu cực, cục cằn và thô lỗ đối với người làm là một điều không thể tránh khỏi. Dẫn đến tình trạng điền chủ buộc phải nâng mức khoán từ 200 kg cùi dừa lên 300, có nơi lên tới gần 400 kg cho một nhân công mỗi ngày. Nhưng vẫn giữ nguyên lương, trừ trường hợp vượt mức khoán. Ngược lại, khi không đủ mức khoán sẽ bị khấu trừ ngay vào lương. Biện pháp đó đã giúp điền chủ cứu vớt tình trạng khủng khoảng kinh tế. Nhưng cũng đã làm cho tình trạng sức khỏe của người lao động giảm sút nhanh chóng và đời sống của họ chật vật thêm.

 Phải đốt cỏ và cây rừng để xua đuổi muỗi trong đồn điền

Do điều kiện làm việc quá sức, ăn uống không đảm bảo nên nhiều người đã bị mắc bệnh. Ngoài việc bị hành hạ về thể xác, thì khí hậu và bệnh lỵ dịch tả, bệnh sốt rét do muỗi a-nô-phen đã làm nhiều người chết oan ngay trong các đồn điền.  Năm 1939, ông đốc-tờ Đào văn Thái, người Hà nam Phủ lý đã cùng với các giáo sư Roncin và Herivault cùng nghiên cứu nguồn gốc của bệnh sôt rét và đã tìm ra nhiều biện pháp để ngăn chặn và chữa trị căn bệnh hiểm nghèo này.

Mục đích về chính sách của nhà cầm quyền thuộc địa lúc đó là mong muốn người lao động Việt nam định cạnh định cư lâu dài ở Tân đảo. Họ vừa giảm được chi phí tuyển dụng nhân công mới, giảm chi phí đài thọ và chi phí vận chuyển. Cái lợi to lớn hơn là nếu giữ được những công nhân cũ sẽ giảm bớt được thời gian đào tạo do họ đã quá quen với công việc và khí hậu sau 5 năm hợp đồng. Họ cũng đã nghĩ đến ngày nào đó dân bản địa bừng tỉnh sẽ đòi độc lập, mà có lực lượng đông đảo người VN làm hậu thuẫn thì sẽ có lợi cho chính quyền đương nhiệm nhiều hơn.


Thậm chí nhiều ông chủ đã gạ gẫm công nhân là nên ở lại tiếp tục làm việc sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nhiều điền chủ còn hứa sẽ thanh toán vé tầu đi về cho người nào thích về thăm quê hương bản quán. Họ nghĩ là người Việt cũng giống như người Tây, người Tầu, người Nam đương, người Nhật v.v... Hễ cứ đất lành thì chim đậu. Nhưng họ đã nhầm.

Tư duy của người VN thời kì xa xưa rất đặc biệt. Đi làm ăn ở đâu cũng được, nhưng nhất thiết cứ phải quay trở về quê hương nơi cắt rốn. Các cụ lúc đó chỉ sợ là nếu có tầu mà không về được thì rồi chẳng biết bao giờ mới có cơ hội trở lại quê hương. Sợ nhất là thân già phải vùi gốc dừa. Tình yêu của các cụ đối với quê hương đất nước lúc bấy giờ thật vô cùng thiêng liêng và nồng nhiệt. Khác hẳn vời người VN thời đại ngày nay. Của đáng tội, nói đi nói lại chẳng qua nói thật. Vì trước năm 1940, một số người phu mộ đã hết hạn hợp đồng quay trở lại VN, và đã tìm cách kí kết hợp đồng mới để trở lại Tân đảo làm ăn. Thời đó mà các cụ đã có đầu óc nhìn xa và thông minh tuyệt vời. Tuy vậy, sau nhiều khóa, có cụ đã định cư ở lại Tân đảo và cũng có cụ trở lại VN vĩnh viễn.

 Quân đội Nhật hoàng tại Hải phong năm 1940

Tới năm 1940, do tình hình chiến sự nổ ra nhiều nời trên thế giới, trong đó có quân đội Nhật hoàng làm bá chủ Đông dương. Chính phủ bảo hộ gặp khó khắn. Việc tuyển dụng và hồi hương phu mộ bị đình hoãn. Người lao động phu mộ VN bị mắc kẹt vì không có tầu hồi hương. Người công nhân bên Tân thế giới đã tự đặt cho mình cái tên « chân đăng » mà nhà văn Jean Vanmai đã dịch sang tiếng pháp là « pieds liés » tức chân bị trói. Vì thấy rằng không có tầu hồi hương là đồng nghĩa với việc sẽ vĩnh viễn bị cột chặt cuộc sống nơi đất khách quê người nay rồi.

Trên thực tế. ở Tân đảo sau năm 1945, một số phu mộ hết hạn hợp đồng đã tự đi tìm chủ mới để làm việc. Đồng thời cũng có người mạnh dạn hơn đã dám kí kết hợp đồng tay đôi với chủ. Hoặc làm khoán hoặc chủ cho thuê đất canh tác với những điều khoản có lợi cho cả đôi bên. Có người đã tự đi làm nghề tự do : cắt tóc, thợ may, thợ giặt là,  mở cửa hàng buôn bán, tậu xe chạy tắc-xi. Thậm chí có người dám nhận thầu khoán xây dựng nhà cửa hoặc mua tầu nhỏ chạy các đảo để buôn bán hoặc chở khách vân vân và v.v… Nhiều người trở nên giấu có.

 Thời kì sau năm 1945, người Việt thương dùng loại xe Jeep Mỹ để kinh doanh.

Nhưng không hiểu sao, không có cái gì có thể níu kéo người Việt ở lại định cư nơi đất lành chim không đậu này. Dứt khoát là phải đấu tranh bằng được hồi hương về cố quốc. Nơi chôn rau cắt rốn mới là quê hương của các cụ. Lòng tự hào dân tộc và tinh thần yêu nước quá cao. Hầu hết mọi người đều chung một mục tiêu phấn đấu, không gì có thể ngăn cản được. Có nhiều người còn có ý nghĩ kì lạ là phải về nước đê chung lưng đấu cật với đồng bào đánh trả bọn thực dân xâm lược. Nhưng sau này, đến khi có tầu hồi hương, một số người đã xin ở lại với vô vàn lý do chính đáng. Và cuộc sống vẫn tiếp diễn. Người ở cũng như người về. Cũng vẫn phải làm để ăn. Cũng vẫn phải tính toán lo toan cho cuộc sồng thường ngày. Cha mẹ đi đâu con theo đấy. Tình mẫu tử là một trong những nét văn hóa truyền thống tuyệt đẹp của người Việt chúng ta.

Vâng. Thưa quý vị ! Cái hay cái dở của cuộc sống đã đi vào dĩ vãng của lịch sử. Sau khi hồi hương, mỗi người ít nhiều đều nếm trải hương vị chua chát của chiến tranh, của cuộc sống thiếu thốn đủ mọi thứ. Đã từng biết thế nào là sự khốc liệt của cái sống và cái chết giữa làn bom đạn. Và cũng đã từng nếm đủ mùi vị ngọt bùi của quê hương là chùm khế ngọt. Nhưng rồi mọi thứ cũng đã qua đi. Môt chân trời mới lại rộng mở. 
1956. Bến xe Tắc-xi của người Việt nam tại Port Vila Tân đảo.

Vậy cuộc sống của những người may mắn ở lại nơi đất lành có khá hơn không ? Tất nhiên là có. Nhưng không phải ai cũng đều gặp may mắn cả đâu quý vị à. Dăm-bông, xúc xích, cao lương mỹ vị chảng thiếu. Nhưng thiếu tiền thì cũng đành chịu. Chẳng dám ngó chứ chưa nói đến mua. Sống ở nước ngoài cũng phải cật lực làm ăn, bon chen lam lũ. Ở VN rât ít bà con làm việc từ 4 giờ sàng đên nửa đêm gà gáy. Nhưng ở nước ngoài thì đó là công việc bình thường hàng ngày do điều kiện ràng buộc.

Bây giờ đây, nhiều lớp thế hệ kế tiếp đã sống với quá khứ và đang sống trong hiện tại. Trong đó có chúng ta. Mỗi người có cuộc sống riêng tư. Có người thành đạt giầu có, khỏe mạnh phong độ và cũng có người đang trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn bệnh tật. Từ xưa đến nay vẫn thế và cả sau này cũng vẫn vậy. Các cụ thường nhắc : « Khéo ăn thì no. Khéo co thì ấm ». Của cải vật chất Thượng đế rải đều khắp nơi khắp chốn. Ai gặp vận may thì nên cơ đồ. Ai không may thì đành ngồi thở dài. Rồi rốt cuộc, khi đã nhắm mắt xuôi tay thì giầu nghèo đâu còn ranh giới.

 Biệt thự của con cháu phu mộ Tân đảo thế hệ hai tại Tuyên quang Việt nam

Vâng. Truyện trăm năm có đầu nhưng chưa có đuôi. Chỉ mong rằng, mỗi khi gặp lại gia đình, bạn bè thân quen chúng ta đều vui mừng, hồ hời lao vào nhau, ôm chặt lấy nhau, nở nụ cười rạng rõ như hoa mùa xuân. Hoặc giả, lúc đó có thể chúng ta cũng sẽ có người đã phải chống gậy, lưng gù tay run, mồm móm mém. Những kí ức xưa dội lại cứ như trong sương mù. Cái nhớ cái không… Đó là chuyện của ngày mai chưa nhìn thấy.

Nhớ lại lời các cụ kể : thời nô lệ, ai may mắn mới được tuyển chọn đi làm phu phen ở nơi cùng Trời cuối Đất. Tại sao có người đi làm cu-li phu mộ chỉ sau một khóa 5 năm, khi hồi hương về quê đã tậu được nhà cửa ruộng vườn trở nên giầu có. Nhưng cũng có nhiều người khó khăn, tái hồi đăng kí hết khóa này đến khóa khác vẫn cứ nghèo rớt mồng tơi… Chẳng duy tâm thì cũng phải tin là có số.

 Của cải vật chất ở khắp nơi khắp chốn. Ai may thì hưởng...

Truyện một ngày, một tháng, một năm cũng đã vô vàn phức tạp. Thế mà chúng ta lại muốn nói chuyện về truyện trăm năm, thật « hoang đường ». Biết thế. Nhưng cũng đành. Thôi thì biết đâu kể đấy, nghe gì ghi nấy. Mong rằng mọi người có sự cảm thông sâu sắc, giúp đỡ tác giả hoàn tất công việc bằng cách góp ý xây dựng một cách cởi mở và chân thành.



Xin chân thành cảm ơn quý vị và các bạn đã chú ý theo dõi phần một và phần hai. Xin mới quý vị xem tiếp phần ba và bốn trong kì tới. Xin chúc mọi người vui khỏe, may mắn, an khang, thịnh vượng.