TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ NGƯỜI PHU
MỘ
Việt Nam ở Tân đảo đầu Thế kỉ
20
Documentations historiques
des travailleurs engagés
vietnamiens
Aux Nouvelles Hebrides/Vanuatu
au 20eme siècle.
Jean Van Son dịch và lên trang Blog
Lược dịch văn bản
Người dịch văn bản dưới đây xin mạn phép được giãi
bầy quan điểm.
Nói chung, bản thân cũng đã từng đọc qua một số tư
liệu, tài liệu và sách đề cập đến Tân đảo (New Hebrides/Vanuatu). Tuy nhiên,
người dịch đã chọn văn bản mang
tên : « La colonisation des Nouvelles Hebrides et les
Indochinois » để dịch vì có rất nhiều tình tiết liên quan đến người phu mộ
Việt nam mà còn ít người biết đến. Mục
đích của việc lựa chọn này nhằm giúp cho đông đảo bà con anh chị em nguyên là
Việt kiều sinh trưởng ở Tân đảo xưa kia sẽ biết rõ thêm về lịch sử của cha ông
chúng ta dưới thời thực dân đô hộ thế kỉ 20 mà thôi.
Trên thực tế, cuộc sống ở đâu cũng có hai mặt. Một mặt, chúng ta
đều được nghe kể chuyện hoặc đọc những
bài viết về sự áp bức bóc lột đến tàn nhẫn của cai kí và chủ đồn điền. Nhưng mặt
trái của thời kì ấy thì nhiều người lại chưa biết hoặc không quan tâm đến.
Chúng ta lên án chế độ thực dân nhưng chúng ta chưa thấy hết được những điểm yếu
của chính người phu mộ.
Xin nêu mấy điểm chính được ghi nhận trong các đồn
điền, đã làm cho người phu mộ tự đưa mình vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Đó
là các tệ nạn rượu chè, trai gái, cờ bạc, trộm cắp ở khắp các đồn điền trên hầu
hết các đảo gần xa ở Tân đảo.
Một số vụ say rượu, trai gái dẫn đến ẩu đả gây
thương tích hoặc án mạng.
Tệ nạn cờ bạc phải vay nợ của chủ với lãi suất cao.
Nhiều trương hợp sau 5 năm không trả được nợ phải xin ở lại đăng kí thêm 5 năm.
Hoặc túng bấn đi trộm cắp dẫn đến tù tội vân vân… Ngoài ra nhiều vụ việc như
lãn công, giả vờ ốm, làm việc không năng suất cũng làm cho người chủ xót xa vì
phải bù lỗ. Thậm chí có cả việc một ông đốc công hoặc một ông cại nọ sắn sàng
nhạn một ít tiền franc đút lót để làm lơ chuyện này chuyện khác. Đó cũng là những
nguyên nhân khiến cho chủ bức xúc phải sử dụng đến hình phạt, nhiều khi quá mức
cho phép.
Không ai có quyền lên án những hậu quả tai hại mà
các tệ nạn xã hội đó đã làm hệ lụy đến cuộc sống của cha ông chúng ta. Đặc biệt
là chúng ta không khỏi bùi ngùi rơi lệ khi có dịp đi qua hoặc viếng thăm các
khu nghĩa trang ở Vila, Santo, Malicolo, Epi v.v... Nếu tổng kết lại, trong
công cuộc khai phá làm giầu cho Tân đảo thì cũng có hàng ngàn người xấu số đã
phải gửi gắm nắm xương tàn nơi đất khách. So với tổng số phu mộ trên dưới 23
ngàn người có mặt ở Tân đảo thời bấy giờ thì tỷ lệ mất mát là quá lớn. Tính ra
cứ 100 người thì có gần 5 người tử vong.
Người dịch sẽ cố gắng dùng từ ngữ thật sát với từng thời điểm để giúp người đọc
dễ hiểu hơn. Rất có thể có những sai sót nhầm lẫn nhất định trong khi dịch thuật.
Vậy xin quý vị độc giả lượng thứ. Xin trân trọng cảm ơn.
Trích dịch nguyên bản Luận án
tiến sĩ về khoa học lịch sử :
« La Colonisation des
Nouvelles Hébrides et les Indochinois »
(Cuộc xâm chiếm Tân đảo làm
thuộc địa và những người dân đến từ xứ Đông dương).
Tác giả: Frederique TAILHADE
Dưới sự chỉ đạo của : Ông
CARBONELL – 1987
PHẦN BẨY (Kết thúc)
Hai phe đối lập được hình thành trong cộng đồng người
VN tại Tân đảo.
Người Việt công giáo luôn được Nhà thờ dòng Đức Bà ở Tân đảo quan tâm giúp đỡ bảo vệ (dòng đạo mariste) và đã trở thành phe thân Pháp
(pro-francais). Và đương nhiên họ ít nhiều không có thiện cảm với người không
tôn giáo (sans religion).
1953. Nhà thờ và trường học đầu tiên của cộng đồng người Công giáo VN tại Port Vila Tân đảo.
Người Công giáo Việt nam sinh sống tập trung tại
vùng đất của Cha xứ dòng ma-rit (Evêché des pères maristes). Họ đã tận dụng nhà
khum (demi-lune) cũ của Mỹ để tự xây dựng một nhà thờ riêng. Ông Lê đứng đầu
nhóm ôn hòa, chủ trương tạo công ăn việc làm cho người Việt nam định canh định
cư lâu dài ở xứ sở này. Bản thân ông Lê đã từng là một doanh nhân quan trọng
trong việc thương lượng ki kết hợp đồng lao động với các điền chủ tại đảo Vaté.
Ngày 26 tháng 12 năm 1946, ngài Thanh tra Lao động
gửi báo cáo lên Ngài Công sứ Pháp như sau :
« Việc áp dụng phổ biến thể thức hợp đồng làm
rẽ (formules contractuelles de métayage) đã giúp cho người Việt hưởng lợi nhuận
rất cao trong thu nhập sản xuất. Tuy vậy, hoạt động này của ông Lê không được
hưởng ứng rộng rãi vì số lượng hội viên của phe « Việt nam Cộng hòa »
quá ít ỏi so với số hội viên của lực lượng Việt minh lô-can tức (Việt nam Công
đoàn) quá đông của ông Đồng Sý Hứa. Do đó đã xây ra một cuộc ám sát bất thành
do ông Lê chủ mưu dự định ám sát ông Đồng Sỹ Hứa. Theo dư luận thì ông Lê đã
thuê một kẻ nghiện ngập không nghề nghiệp có biệt danh « Hà Tôn Hiến »
dùng súng lục côn C45 của Mỹ thực hiện việc này. Khi tến Hà dí súng vào ngực ông Đồng
sỹ Hứa bóp cò, đạn không nổ. Ông Đồng thoát chết. Tên Hà về nhà thử lại súng
thì viên đạn nổ xuyên thủng mái nhà tôn. Chính quyền không can thiệp vì không
có bằng chứng.
Khẩu súng lục Colt 45 của Mỹ.
Từ việc ám sát hụt người cầm đầu khối Việt minh,
ông Lê đã phải bỏ Port Vila đến làm việc ở đồn điền PRNH ở No-súp Malicolo. Tuy
vậy ông ta đã tập hợp được hơn 1.000 công nhân kí kết hợp đồng rẽ với nhiều điền
chủ, trong đó có 40 người làm việc cho điền chủ Cai-a (Caillard) ở PRNH.
Mặc dù không tố cáo ông Lê về vụ mưu sát hồi tháng
giêng, nhưng ông Đồng vẫn ngấm ngầm ra sức vận động mọi người lãn công chống đối
ông Lê. Mục đích của ông Đồng là dấy lên
phong trào phản đối chiến tranh của Pháp ở Việt Nam.
30.6.1946. Ông Đặng Long Hưởng chủ tịch Hội Liên đoàn Ái hữu VN
và ông Đòng Sỹ Hứa Chủ tịch Hội Liên hiệp Thợ thuyền Việt Nam
Tổ chức ngày hội kéo cờ đỏ sao vàn tại Port Vila Tân đảo.
Không một ai có khả năng chống đối lại ông Đồng, một
nhà hùng biện có tài. Nếu không phải là ông Lê, người cầm đầu của phe người việt
thân Pháp. Sau này, khối người việt công giáo đã được một vị linh mục an-nam dẫn
giắt thành lập một phe phái đối lập với cà Việt minh lô can và Liên việt.
Công cuộc hồi hương quy mô lớn.
Một trong những vần đề lớn có thể tạo nên giải pháp
hữu hiệu cho công việc hồi hương của người Việt : chủ yếu là nguồn tiền để
thuê tầu vận chuyển.
Các điền chủ không còn quan tâm đến vấn đề này. Vì
hạn hợp đồng 5 năm đã chấm dứt và người phu mộ này đã được hưởng quyến cư trú tự
do rồi. Các điền chủ không còn chịu trách nhiệm, nhưng tuyên bố sẵn sàng góp tiền
thuê tầu với điều kiện sẽ được chính quyền thanh toán hoàn trả nhanh chóng. Sau cuộc thương
lượng tích cực với hãng tầu vận tải M.M. (Messageries Maritimes), họ cũng đã đạt được thỏa
thuận về việc hạ giá vé cước phí vận chuyển.
Ngày 30/12/1960. Chuyến tầu hồi hương đầu tiên của bà con VK Tân Thế giới do Eastern Queen thực hiện.
Cuối năm 1960, cuộc hồi hương quy mô lớn bắt đầu thực
hiện ở bên Noumea New Caledonia với con tầu Hoàng hậu Phương đông (Eastern
Queen). 1.547 người Việt đã hồi hương về Hải phòng. để lại nỗi nhớ bạn bè và kỉ
niệm sâu đậm. Nhất là đối với những người sinh trưởng tại Noumea. Rất nhanh
chóng, những tin tức nóng hổi đã theo con tầu trở lại Noumea. Tin hay cũng có,
tin buồn cũng nhiều. Đa số đều kêu ca phàn nàn về sự thiếu thốn vật chất, về cuộc
sống nghèo nàn lạc hậu. Rằng khi hồi hương các gia đình bị gặp cảnh chia ly mỗi
người một nơi. Một số vật dụng bị tịch thu v.v…
1961. Bà con Việt kiều San-tô Tân đảo biểu tình phản đối nhà cầm quyền Pháp ngừng hoãn công cuộc hồi hương.
Nhưng đến tháng 4 năm 1961, cuộc hồi hương bất ngờ
bị đình hoãn vô thời hạn. Mãi đến tháng 7 năm 1963 cho đến tháng 2 năm 1964,
công cuộc hồi hương mới được hoàn thành trọn vẹn.
Tổng số người còn ở lại Tân đảo là 411 người lớn và
trẻ em. Đa số là người công giáo. Một số do hoàn cảnh gia đình neo bấn, một số
không có tiền nên không dám về quê hương gặp mặt họ hàng. Một số lập gia đình với
người bản địa nên không về nước.
1964. Sau cuộc hồi hương. Đường phố Vila trở nên hoang vắng.
Sự vắng bóng của người lao động đến từ xứ Đông
dương đã gây nên cảnh hoang tàn trong các đồn điền ở Tân đảo. Người bản xứ cũng
thưa dần vì có sự can thiệp của các vị truyền giáo Tin lành người Anh.
Năm 1948, có tin đồn rằng sẽ tiếp tục tuyển dụng
người lao động đến từ xứ an-nam làm cho các điền chủ phấn khởi và hy vọng.
Nhưng rồi chẳng có gì…
Ngày 20 tháng 8 năm 1948, Công đoàn Nông nghiệp Tân
đảo thông báo sẽ có nhân công đến từ Nam dương. Nhưng chờ mỏi cả mắt. Năm 1951,
các điền chủ lại nuôi hy vọng tuyển mộ công nhân từ Nam bộ (Cochinchine). Thật hão huyền. Rôi
dân Bắc Phi, và cuối cùng là dân Mã lai. Năm 1956, lại tin đồn thất thiệt về
người lao động đến từ Thái lan. Thực tế, người ta đã tuyển dụng một số lao động
Bắc phi (Kabyles) và cả Oải Oa-lích (Wallis) nhưng hiệu suất lao động không ổn
định (Lương bổng và chi phí quá đắt đỏ và họ không thể làm được những công việc
đòi hỏi sự chăm chỉ, tỉ mỉ và cần mẫn như người tông-ki-noa).
1946. Người dân bản xứ làm việc trong đồn điền dừa ở Tân đảo.
Tóm lại, điều kiện và thời gian làm việc của người
lao động đã thay đổi. Trong khi sản lượng dừa khô của người bản xứ bắt đầu tăng
mạnh thì sản lượng dừa khô của các điên chủ Pháp đã giảm sút và chững lại. Thêm
nữa, thay vì phải làm nghĩa vụ tiếp tục sự nghiệp của cha ông, thì con cái của các điền chủ Pháp đã lựa chọn con đường khác: họ thích trở thành công chức Nhà nước, thích công việc làm trong các cơ
quan thương mại hoặc hành chính sự nghiệp.
28/7/1963. Hoàng hậu Phương đông hướng về phương Bắc.
Sự ra đi của người cu-li tông-ni-noa cũng là tiếng
chuông báo tử (le glas) cho sự nghiệp vàng son một thời của chế độ thuộc địa Pháp ở Tân
đảo.
PHẦN KẾT
Biến cố thuộc địa của nước Pháp tại Tân đảo đã bị sụp
đổ phũ phàng trong năm 1980, khi đát nước này tuyên bố độc lập. Sự đăng quang cầm
quyền của ông Walter LINI, một vị mục sư nói tiếng Anh, đã làm cho nước Pháp
tiêu tan mọi hy vọng trong quan hệ chính trị
với Nhà nước non trẻ này.
Mục sư nói tiếng Anh - Father Walter LINI - Khai sinh cho nền độc lập của Tân đảo/Vanuatu.
Chủ tịch Đảng NUP - Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Vanuatu.
Sự thất bại của nước Pháp ở Tân đảo hình như đã được
định đoạt từ lâu rồi. Nó được giải thích thông qua chính sách cai trị của người
Pháp. Gần như toàn bộ đất đai canh tác ở Tân đảo thuộc quyền sở hữu của người
Pháp đã trở thành mục tiêu bị xóa sổ. Trái lại, người Anh chỉ tập trung vào việc
buôn bán nên ít liên quan đến vấn đề đất đai. Tác giả không hề có tham vọng nêu
lên toàn bộ chi tiết của cuộc hành trình vô cùng lớn lao trong công cuộc thôn
tính thuộc địa.
Quốc kì nước Cộng hòa Vanuatu
Phần hai đẫ nêu lên thời điểm mà chế độ thuộc địa đạt
đỉnh cao nhất của lịch sử, về ưu thế cực kì mạnh mẽ của người Pháp dựa vào lực
lượng lao động người nước ngoài (Việt nam). Chính nhờ vào lực lương lao động
người xứ đông dương này mà các chủ đồn điền đã thu được kết quả khả quan. Đến khi
người cu-li tông-ki-noa rời bỏ nơi này thì sự hiện diện của người Pháp cũng bị xóa nhòa theo dòng thời gian...
Chính sách mở rộng thuộc địa của Pháp ở Tân đảo
không thể thực hiện được do việc sử dụng nhân công đến từ nước ngoài. Họ không
hề có ý tưởng định canh định cư lâu dài
trên đất nước này.
Đảo lớn Malakula (Malicolo)
Năm 1987, nhiều sự thay đổi lớn trong việc thay tên
đổi chủ. Đồn điên dừa lớn nhất ở Malicolo mang tên Đồn điền Tập trung của Tân đảo
PRNH (Plantations Reunies des Nouvelles Hebrides) đã trở thành Đồn điền tập
trung của Vanuatu PRV (Plantations Reunies du Vanuatu). Công ty PCFNH đã bị
chia cắt thành nhiểu đồn điền nhỏ canh tác theo kiểu truyền thống. Tất cả những
việc đó đã làm cho thể chế cộng hòa thứ ba của nước đại Pháp thiệt hại nặng nề.
Những cửa hàng này trước đây của người Việt Nam ở Port Vila
Tác giả không có ý đồ phân tích tỉ mỉ sụ chuyển biến
lớn trong cuộc sống của người Việt nam sau năm 1947 và nhất là sau cuộc hồi
hương lớn của năm 1960-1964. Đến năm 1987, tổng số kiều dân Việt còn lại khoảng
400 người. Trong đó trên 100 người đã được gia nhập quốc tịch Vanuatu. Sau năm
1980, lực lượng của người Việt nam ở đây đã dần dần chiếm ưu thế về kinh tế so
với người bản xứ kể cả kiều dân Pháp và Anh. Từ việc chiếm lĩnh ngành xây dựng
cho đến việc kinh doanh buôn bán, kinh doanh Taxi, trồng rau, chăn nuôi gia súc
v.v… Nhiều người đã trở nên giầu có nhanh chóng trên một đất nước non trẻ mới
dành độc lập...
Hình dạng nguyên thủy của bia mộ xây kiểu mémorial
Tháng 12 năm 1986, Hội Ái hữu Việt nam ở Vanuatu đã
được phép của Chính phủ tổ chức nghi lễ phá bỏ xiềng xích chung quanh bia mộ của
6 người tông-ki-noa bị kết án tử hình, chôn chung một hố tại nghĩa trang của
người Âu ở Port Vila. Với lý do là phải giải phóng cho họ được Tự do. Đồng thời
phá bỏ một di tích của chế độ nô lệ xưa còn sot lại.
Sự hiện diên của Ngài Tổng thống nước Cộng hòa
Vanuatu, đã tôn vinh cho buổi Lễ trọng đại này. Đồng thời nó đánh dấu sự thừa
nhận địa vị và vai trò của một cộng đồng nhỏ bé nhưng vô cùng quan trọng trong
lĩnh vực kinh tế của đất nước này. Đó là người Việt Nam mới. Những con cháu hậu
duệ của người phu mộ tông-ki-noa. Họ đã quyết định lựa chon cho mình hướng đi mới
trong việc định canh định cư nơi xứ người.
Vô hình chung, họ dã tiếp tục truyền thống của cha
ông ngày trước. Tân đảo trước kia, nay là Vanuatu vẫn có bàn tay của con người
Việt Nam góp sức xây dựng.
1906-1980. Chính quyền đồng quản Anh Pháp (Condominium) đã trị vì 74 năm tại Tân đảo (New Hebrides)
Sự thật về ngôi mộ
của 6 người Việt nam bị án tử hình
của 6 người Việt nam bị án tử hình
ở Port Vila Tân đảo
New Hebrides/Vanuatu.
Lâu
nay, trên báo chí và cả trên bộ phim Ký sự Tân đảo (New Caledonia – Vanuatu), người ta ít nhiều
đều nói lên đôi điều về lịch sử
của 6 người phu mộ VN bị chính quyền địa
phương ở Tân đảo kết án tử hình và xử trảm
bằng máy chém lúc 6 giờ sáng ngày 28
tháng 7 năm 1931, ngay trên bãi đất khu vực trại lính Bảo an, bên cạnh nhà thương Tây ở Port Vila. 6 thi thể
đã được chôn chung dưới một nấm mồ ở giữa Nghĩa địa Tây và Nghĩa địa cũ của người
Công giáo Việt nam tại Port Vila.
Và cho đến nay
người ta cứ vẫn lầm tưởng và đinh ninh là ngôi mộ có chằng dây xích sắt của 6
vị nói trên là do Chính quyền Pháp tại
địa phương này xây đắp. Nhưng không phải!
Sự thật hoàn toàn trái ngược lại.
Bằng chứng cụ
thể là chúng ta hãy cùng nhau đọc lại nguyên
văn đoạn viết của cụ Cố Đồng Sỹ Hứa ở trang 66 trong cuốn sách De La
Mélanésie au Viet nam (Từ Châu đại dương về VN) như sau:
…“Les
quatre révoltés de Malo-Pass furent enfouis dans une fosse commune avec les
deux autres assassins. Sans tumulus, sans pierre tombale. Ce ne sera qu’en Novembre
1946, après une dure lutte de deux mois, que leur compatriotes de Port
Vila, sous la direction de l’Union départementale des syndicats CGT des
Nouvelles-Hébrides, obtinrent le droit de leur construire un memorial”.
Lược dịch: “Bốn người nổi loạn tại đồn điền Malo-Pass (a)
đã bị chôn chung với hai tội phạm giết người khác. Không có nấm mồ, không có
bia mộ (b). Mãi đến tháng mười một năm 1946, sau cuộc đấu tranh căng thẳng
kéo dài hai tháng trời, đông bào của họ tại Port Vila dưới sự lãnh đạo của Liên
đoàn Thợ thuyền (c) trực thuộc Tổng Công
hội Pháp tại Tân đảo, mới dành được quyền xây cất cho họ một bia mộ tưởng niệm (d) ”.
Bài dịch xin được kết thúc tại đây.
Người dịch xin trân trọng kính
chào và cảm ơn quý vị đã dành thời gian quý hiếm để ghé thăm Blog Tân đảo Xưa
và Nay. Và đặc biệt đã quan tâm đến lịch
sử về cuộc sống tha phương của người phu mộ Việt Nam tại Tân đảo.
Xin chúc mọi người vui khỏe và
may mắn.